Kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 355-NQ/TU ngày 01/8/2024 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
Kế hoạch số 161-KH/ĐUK ngày 09/10/2024 của BTVĐK
Ngày 09/10/2024, Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 161-KH/ĐUK về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Bắc Giang đến năm 2030, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Ban Biên tập Website đăng nội dung Kế hoạch để các chi, đảng bộ cơ sở triển khai thực hiện.
Ban Biên tập
Hơn 700 đại biểu được bồi dưỡng chuyên đề “Đảng ta thật là vĩ đại”
Thực hiện Quyết định số 2448-QĐ/TW, ngày 26/5/2023 của Ban Tuyên giáo Trung ương và Công văn số 1350-CV/BTGTU, ngày 13/12/2023 của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Bắc Giang về việc thực hiện Chương trình bồi dưỡng chuyên đề “Đảng ta thật là vĩ đại”; sáng 30/9, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh, Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh tổ chức Hội nghị bồi dưỡng chuyên đề lịch sử Đảng “Đảng ta thật là vĩ đại”.
Quang cảnh hội nghị
Dự hội nghị có các Thường trực Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh; các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối; hơn 700 cán bộ chủ chốt các cấp ủy, tổ chức đảng, đoàn thể trong toàn đảng bộ Khối.
Tại hội nghị, các đại biểu được nghe PGS, Tiến Sĩ Nguyễn Danh Tiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh giới thiệu, thông tin chuyên đề “Đảng Cộng sản Việt Nam - sự lựa chọn duy nhất của cách mạng Việt Nam” và chuyên đề “Đường lối lãnh đạo của Đảng soi sáng con đường cách mạng Việt Nam”.
Trong đó, đã làm rõ Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sự kiện đặc biệt quan trọng tiến trình lịch sử cách mạng Việt nam, mở ra bước ngoặt trọng đại, đánh dấu mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Và qua hơn 94 năm Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu, quyết định mọi thắng lợi, kỳ tích của dân tộc Việt Nam…
PGS, Tiến Sĩ Nguyễn Danh Tiên, Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thông tin các chuyên đề
Cũng tại hội nghị các đại biểu đã được nghe đồng chí Trần Tuấn Nam, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy báo cáo chuyên đề về bối cảnh tình hình và chủ trương phát triển KT-XH của tỉnh hiện nay. Đồng chí đã nhấn mạnh về những chủ trương, định hướng lớn và nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh từ nay đến hết năm 2024 và thời gian tiếp theo, đặc biệt mục tiêu phấn đấu của tỉnh là hoàn thành mức cao nhất các chỉ tiêu, kế hoạch phát triển KT-XH năm 2024 và cả nhiệm kỳ 2020-2025 đã đề ra.
Đồng chí Trần Tuấn Nam- TUV, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy thông tin tại hội nghị
Hội nghị nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục rộng rãi truyền thống lịch sử quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam trong toàn Đảng bộ Khối, đồng thời bồi đắp cho cán bộ, đảng viên và người lao động tinh thần, ý chí, bản lĩnh cách mạng, kiên định lý tưởng, mục tiêu con đường đi lên xây dựng đất nước, độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; củng cố niềm tin vào đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng; tạo sự đồng thuận trong toàn Đảng bộ Khối, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc, khát vọng cống hiến, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau hội nghị, các cấp ủy cơ sở căn cứ Kế hoạch, Hướng dẫn của Đảng ủy Khối tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc, chất lượng, hiệu quả các nội dung đã được tiếp thu tại hội nghị tới toàn thể cán bộ, đảng viên, người lao động trong toàn Đảng bộ Khối.
Ngọc Châm
Hướng dẫn công tác tuyên truyền quý IV năm 2024
>>Hướng dẫn số 20-HD/BTGĐUK của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối
Ngày 03/10/2024, Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh đã ban hành Hướng dẫn số 20-HD/BTGĐUK về công tác tuyên truyền quý IV năm 2024. Trang Website Đảng bộ Khối đăng tải nội dung Hướng dẫn, đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở tuyên truyền các nội dung theo Hướng dẫn đến cán bộ, đảng viên, người lao động trong đơn vị.
Ban Biên tập
Công văn triệu tập quần chúng ưu tú học lớp Bồi dưỡng LLCT dành cho đảng viên mới tháng 10/2024
Ngày 03/10/2024, Ban Tuyên giáo Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh đã ban hành Công văn số 61-CV/BTGĐUK về việc triệu tập đảng viên dự học lớp bỗi dưỡng LLCT dành cho đảng viên mới tháng 10/2024; Ban Biên tập Website đăng nội dung công văn để các chi, đảng bộ cơ sở biết và thông báo cho đảng viên có trong danh sách tham gia lớp học.
Ban Biên tập
Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2024) và 25 năm Ngày Dân vận của cả nước (15/10/1999 – 15/10/2024)
Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Dân vận Tỉnh ủy; Ban Biên tập Website đăng nội dung Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng (15/10/1930 - 15/10/2024) và 25 năm Ngày Dân vận của cả nước (15/10/1999 – 15/10/2024) để các chi, đảng bộ cơ sở triển khai tuyên truyền tại đơn vị.
Ban Biên tập
Công văn về việc vận triển khai “Tháng dân vận” năm 2024
Công văn số 1012-CV/ĐUK ngày 27/9/2024 của Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh
Ngày 27/9/2024, Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh đã ban hành Công văn số 1012-CV/ĐUK về việc triển khai “Tháng dân vận” năm 2024. Ban Biên tập Website đăng nội dung Công văn để các chi, đảng bộ cơ sở triển khai thực hiện.
Ban Biên tập
39 quần chúng ưu tú được kết nạp vào Đảng
Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh vừa ban hành quyết định kết nạp 39 quần chúng vào Đảng. Trong đó 23 đồng chí (bằng 58,9%) làm việc trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đảng viên nữ 11 đồng chí (bằng 28,2%), trong độ tuổi đoàn thanh niên 26 đồng chí (bằng 66,7%), đảng viên là người dân tộc Cao Lan và Tày là 02 đồng chí (bằng 5,1%). Trình độ chuyên môn, thạc sỹ 03 đồng chí (bằng 7,7%), đại học, cao đẳng 30 đồng chí (76,9%) trung cấp tương đương 06 đồng chí (bằng 15,4%).
Lễ kết nạp đảng viên mới tại Chi bộ Công ty TNHH Sanwa Việt Nam (Khu công nghiệp Đình Trám)
Công tác thẩm định hồ sơ được các cơ sở đảng và Đảng uỷ Khối thực hiện đầy đủ, nghiêm túc đúng quy định của Điều lệ Đảng.
Thời gian tới Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối tiếp tục chỉ đạo các cơ sở đảng đẩy mạnh thực hiện các phong trào thi đua trong đoàn viên thanh niên, người lao động, qua đó kịp thời phát hiện các điển hình tiên tiến để bồi dưỡng, tạo nguồn kết nạp Đảng.
Nhân dịp này Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối quyết định công nhận đảng viên chính thức cho 15 đảng viên dự bị.
Hạnh Nguyễn
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến La Habana, bắt đầu thăm cấp Nhà nước Cộng hòa Cuba
Theo đặc phái viên TTXVN, vào lúc 21 giờ 45 phút tối 25/5 theo giờ địa phương (sáng 26/9 giờ Hà Nội), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao nước ta đã đến sân bay quốc tế Jose Marti ở Thủ đô La Habana, bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước tới Cộng hòa Cuba theo lời mời của Bí thư Thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch nước Cộng hòa Cuba Miguel Diaz Canel Bermudez và Phu nhân.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Đảng Cộng sản Cuba Roberto Morales Ojeda đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân tại Sân bay Quốc tế José Martí, thủ đô La Habana. (Ảnh: Lâm Khánh/TTXVN)
Đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao nước ta tại sân bay Jose Marti, về phía Cuba có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị Roberto Morales Ojeda - Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Cuba; Alvaro Lopez Miera - Bộ trưởng Bộ các Lực lượng Vũ trang Cách mạng, Lazaro Alberto Alvarez Casas - Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Emilio Lozada Garcia - Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Cuba. Ngoài ra còn có Đại sứ Cuba tại Việt Nam Orlando Nicolas Hernandez Guillen cùng một số cán bộ của Ban Đối ngoại và Bộ Ngoại giao Cuba.
Về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Cuba Nguyễn Hoàng Long và cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Cuba.
Đội danh dự đứng dọc hai bên thảm đỏ, quốc kỳ hai nước tung bay chào đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đến với hòn đảo tự do anh hùng giữa biển Caribe.
Đây là chuyến thăm đầu tiên của đồng chí Tô Lâm đến Cuba trên cương vị là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước và Cuba là một trong những nước đầu tiên đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sang thăm.
Diễn ra trong bối cảnh hai nước hướng tới kỷ niệm 65 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (2/12/1960-2/12/2025), chuyến thăm là minh chứng khẳng định mối quan hệ đoàn kết truyền thống, hữu nghị đặc biệt Việt Nam-Cuba đã và vẫn luôn được coi là tài sản quý báu được Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước hết sức vun đắp, đồng thời thể hiện sự coi trọng cao của Việt Nam đối với Cuba và vị trí của Cuba trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn báo chí trước thềm chuyến thăm, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung cho biết, qua chuyến thăm, Việt Nam khẳng định mong muốn tiếp tục kế thừa và phát huy di sản quan hệ quý báu giữa hai nước, trên nền tảng vững chắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Tư lệnh Fidel Castro tiên phong gây dựng.
Dự kiến trong chuyến thăm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ dự lễ đón chính thức; có các cuộc hội đàm, hội kiến với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt Cuba; dâng hoa tại tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh và Anh hùng dân tộc Cuba Jose Martí, thăm một số cơ sở kinh tế, trong đó có những nơi có các dự án hợp tác và đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam; gặp gỡ với bạn bè hữu nghị và thế hệ trẻ hai nước.
Theo https://nhandan.vn/
Công tác quản lý đảng viên ngoài khu vực nhà nước – Thực trạng và một số vấn đề đặt ra
Công tác quản lý đảng viên là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng nhằm giúp cấp ủy, tổ chức đảng nắm chắc đội ngũ đảng viên; phát hiện những đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ, năng lực để giới thiệu giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý trong cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị- xã hội. Đồng thời, kịp thời phát hiện những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, vi phạm của đảng viên để có chủ trương, biện pháp giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện hoặc kỷ luật nghiêm minh.
Chi bộ Công ty TNHH HOSIDEN (Đảng bộ Các KCN tỉnh) sinh hoạt thưởng kỳ
Việc nâng cao chất lượng quản lý, phát huy vai trò của đội ngũ đảng viên luôn là khâu then chốt, là nội dung quan trọng, nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng; đặc biệt trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Công tác quản lý đảng viên của các cấp ủy, tổ chức đảng có nhiều nội dung, trong đó tập trung những nội dung chủ yếu, như: Quản lý về chính trị, tư tưởng của đảng viên; quản lý việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên; quản lý các mối quan hệ xã hội của đảng viên; quản lý sinh hoạt đảng của đảng viên; quản lý đảng viên đang công tác tại các cơ quan, doanh nghiệp, thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú; quản lý đảng viên khi ra nước ngoài; quản lý, sàng lọc đảng viên; quản lý hệ thống sổ nghiệp vụ công tác đảng viên ở chi bộ; quản lý hồ sơ đảng viên...
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương và Ban Thường vụ Tỉnh ủy; trong những năm qua, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh đã chỉ đạo các chi, đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp ngoài nhà nước thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ trong công tác quản lý đảng viên, qua đó chủ động ngăn ngừa đảng viên vi phạm các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Qua khảo sát đối với cán bộ lãnh đạo, cấp uỷ và đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước đã cho thấy nhận thức đã được nâng lên, luôn quan tâm đến công tác quản lý đảng viên (82% cho ý kiến được hỏi cho rằng công tác quản lý đảng viên rất quan trọng, chỉ có 16% cho ý kiến quan trọng).
Một trong những nội dung được quan tâm thường xuyên, đó là công tác quản lý thực hiện nhiệm vụ của đảng viên. Hằng năm các chi bộ trong Đảng bộ Khối đã thực hiện nghiêm túc việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên bảo đảm phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, sức khỏe, năng lực công tác của từng đảng viên. Có chi bộ đã quan tâm ban hành nghị quyết riêng về phân công nhiệm vụ cho đảng viên; định kỳ hằng tháng tiến hành kiểm điểm, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ được phân công; đưa tiêu chí bằng sản phẩm cụ thể và kết quả hoàn thành nhiệm vụ được phân công là tiêu chí quan trọng để đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên hằng năm. Các cơ sở đảng đã tổ chức cho đảng viên xây dựng kế hoạch cá nhân học tập và làm theo Bác và cam kết thực hiện Nghị quyết TW4 khóa XIII về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; đã đăng ký thực hiện việc làm tốt của tập thể, việc làm tốt của cá nhân... Từ năm 2020 đến nay, đã có 699 việc làm tốt của tập thể và 6.590 việc làm tốt của cá nhân, 48/56 (85,7%) vấn đề đột phá, bức xúc, nổi cộm đã được thực hiện; trên 90% lượt đảng viên thực hiện đúng kế hoạch và cam kết của cá nhân.
Việc giao nhiệm vụ cho đảng viên thực hiện công tác bồi dưỡng, tạo nguồn, kết nạp đảng viên được các cấp uỷ quan tâm lãnh đạo và thực hiện có chất lượng. Hằng năm Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đều xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên, giao chỉ tiêu cụ thể cho cơ sở đảng, trong đó chú trọng phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước. Các cấp ủy cơ sở phân công đảng viên chịu trách nhiệm từng khâu, từng việc cụ thể; coi trọng phát triển đảng viên cả về số lượng và chất lượng. Việc xét, đề nghị kết nạp đảng viên được tiến hành chặt chẽ, bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình, quy định. Từ năm 2020 đến tháng 8/2024, toàn Đảng bộ Khối đã kết nạp 822 đảng viên mới, trong đó có trên 60% đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Bên cạnh đó, công tác quản lý đảng viên gắn với rà soát, sàng lọc đảng viên được thực hiện nghiêm túc theo đúng các quy định, hướng dẫn về quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên; đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần trách nhiệm, giúp cho việc ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong đội ngũ đảng viên, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài nhà nước thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh.
Dù đạt được những kết quả quan trọng, trong toàn Đảng bộ Khối vẫn còn một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý đảng viên, cụ thể như:
Thứ nhất: Một số cấp ủy, chi bộ quản lý đảng viên về mặt tư tưởng chính trị còn hạn chế; chưa thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng, điều kiện, hoàn cảnh của đảng viên; chưa thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ công tác quản lý, phân công công tác cho đảng viên và giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đảng viên.
Thứ hai: Việc phân công, giao nhiệm vụ và quản lý đảng viên của một số chi bộ còn hình thức, chưa sát thực tiễn, nhất là trong các doanh nghiệp tư nhân. Một bộ phận đảng viên chưa nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước dẫn đến phải xử lý kỷ luật, truy cứu trách nhiệm hình sự đã ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng và niềm tin của người lao động đối với Đảng.
Thứ ba: Một số tổ chức đảng thực hiện các nội dung về công tác quản lý đảng viên chưa gắn chặt với việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình; trong kiểm điểm còn biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, dĩ hòa vi quý, tính chiến đấu không cao. Việc theo dõi, quản lý đảng viên đang công tác ở doanh nghiệp về giữ mối liên hệ với cấp ủy nơi cư trú theo Quy định số 213-QĐ/TW của Bộ Chính trị ở một số đơn vị thực hiện chưa nghiêm túc. Một số chi bộ, cấp ủy cơ sở thực hiện công tác quản lý sinh hoạt đảng đối với đảng viên miễn công tác và sinh hoạt hoặc tạm miễn sinh hoạt chưa chặt chẽ, chưa bảo đảm theo quy định...
Trong những năm tới đây, cùng với những tiến bộ trong phát triển kinh tế, xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Bắc Giang nói riêng, các thế lực thù địch sẽ gia tăng các âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ, tăng cường chống phá cách mạng, chống phá Đảng, chống phá nhà nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam... Đồng thời, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận đảng viên có tác động ảnh hưởng đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên, dẫn đến tư tưởng phai nhạt lý tưởng, thờ ơ, dao động niềm tin, giảm sút ý chí phấn đấu. Do đó công tác quản lý đảng viên về tư tưởng chính trị, đặc biệt trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước sẽ gặp không ít khó khăn.
Với xu hướng và đặc điểm đó, công tác quản lý đảng viên trong doanh nghiệp nói chung và trong doanh nghiệp ngoài nhà nước nói riêng thời gian tới cần phải được hết sức quan tâm, trọng tâm là quản lý chính trị tư tưởng của đảng viên, quản lý thực hiện nhiệm vụ của đảng viên và quản lý sinh hoạt của đảng viên; trong đó quản lý về chính trị tư tưởng là trọng tâm trong giai đoạn hiện nay; đồng thời kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế- xã hội với thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Tăng cường và thường xuyên đổi mới, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác quản lý, giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng niềm tin, lý tưởng cách mạng cho đội ngũ đảng viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước hiện nay.
Bên cạnh đó, thực hiện tốt việc rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng, làm trong sạch nội bộ Đảng, củng cố uy tín, vai trò của Đảng. Thực tiễn cho thấy, nơi nào cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đề ra các giải pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tiễn, thường xuyên phát huy dân chủ, sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị- xã hội và cán bộ, đảng viên, người lao động tham gia góp ý xây dựng Đảng thì nơi đó thực hiện nghiêm túc, đạt kết quả tốt trong công tác quản lý, giáo dục đảng viên. Từ đó góp phần xây dựng môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, phát triển doanh nghiệp bền vững./.
Lạng Thương
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khai mạc Hội nghị lần thứ 10
NDO - Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tổ chức Hội nghị lần thứ 10. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự và phát biểu khai mạc Hội nghị.
Phiên khai mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Trước khi diễn ra chương trình hội nghị, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dành một phút mặc niệm cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã thiệt mạng do cơn bão số 3.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh, Hội nghị diễn ra vào thời điểm rất đặc biệt: Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, nhà tư tưởng, ngọn cờ lý luận của Đảng đã vĩnh biệt chúng ta vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang quyết tâm thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; cơn bão số 3 gây thiệt hại hết sức nặng nề về người và tài sản ở hầu hết các tỉnh, thành phố phía bắc; khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang tập trung nỗ lực cao nhất để khắc phục hậu quả do cơn bão gây ra... Hội nghị Trung ương lần này diễn ra sớm hơn và ngắn hơn dự kiến, làm việc cả ngoài giờ hành chính. Hội nghị thảo luận, cho ý kiến về 10 nội dung thuộc 2 nhóm vấn đề chiến lược và một số việc cụ thể.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước biểu quyết thông qua chương trình hội nghị. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị, các đồng chí dự Hội nghị tiếp tục dành thời gian nghiên cứu để có những ý kiến thật xác đáng, phản ánh đúng thực tiễn của bộ, ngành, địa phương. Tập trung đóng góp những vấn đề cụ thể và những vấn đề có tính khái quát, nhất là những vấn đề thực tiễn đặt ra chưa được đề cập trong dự thảo các văn kiện nhưng cần phải đánh giá tổng kết các nội dung quan trọng về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những chủ trương chính sách đổi mới có tính chiến lược đột phá, khả thi cao.
Khẳng định Đại hội XIV là Đại hội đánh dấu thời điểm đất nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đòi hỏi ngay từ quá trình xây dựng văn kiện, mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị cần phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gợi mở một số vấn đề trọng tâm các công việc để tăng tốc “về đích” thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 10, khóa XIII. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong năm 2025; là nền tảng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng tới 100 năm thành lập Nước. Mục tiêu này cần phải được thực hiện với quyết tâm cao nhất, nỗ lực lớn nhất, hành động quyết liệt với giải pháp thực hiện hiệu quả nhất, bảo đảm phải đạt và phấn đấu vượt các mục tiêu đề ra; đây là trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, trước lịch sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc, trước bạn bè quốc tế; là minh chứng khẳng định năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, do vậy phải tập trung mọi nguồn lực, biện pháp để hoàn thành. Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2025 đã đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu; phân tích khả năng hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 trên cơ sở tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024. Bộ Chính trị đã thảo luận rất kỹ, đánh giá toàn diện, cân nhắc mọi mặt và quyết định báo cáo để Trung ương thảo luận, cho ý kiến.
Về công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh 3 vấn đề cần tập trung thảo luận làm rõ: về các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng; về chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIV; về Công tác Xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng.
Với vị trí Báo cáo chính trị là trung tâm; Tổng kết 40 năm đổi mới là báo cáo rất quan trọng để chắt lọc tinh hoa đưa vào Văn kiện Đại hội XIV; Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Báo cáo công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng là các báo cáo chuyên đề, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị các đồng chí dự Hội nghị tập trung thảo luận làm rõ: Nội dung Báo cáo chính trị trình Hội nghị đã đáp ứng tầm mức của báo cáo trung tâm ở tầm quan điểm, đường lối, chủ trương, đã đúc kết giá trị của quá khứ, hiện tại và hướng tới tương lai chưa? đã là “ngọn đuốc soi đường” dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đạt các mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII đã đề ra hay chưa? Các báo cáo chiến lược về phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng; những vấn đề lý luận và thực tiễn được đúc rút qua tổng kết 40 năm đổi mới đã bao hàm đầy đủ căn cứ cho những luận điểm khái quát trong Báo cáo chính trị chưa? Các báo cáo có nhất quán với nhau và có nhất quán với quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển đất nước giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến năm 2045 hay chưa? Nội dung cụ thể trong từng báo cáo, nhất là những đánh giá về tồn tại, hạn chế và phương hướng chiến lược, nhiệm vụ đột phá đã đề ra. Cần làm rõ, những chủ trương, biện pháp đã “đúng”, “trúng” có đủ sức đột phá để đưa đất nước bước sang kỷ nguyên mới hay chưa? những yếu tố mới của thực tiễn cần bổ sung là gì?
Trung ương tiếp tục tập trung thảo luận một số vấn đề cụ thể, về đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ tiếp theo; về phương hướng, giải pháp chiến lược, trong đó, tinh gọn bộ máy Tổ chức Đảng, Nhà nước, Quốc hội, các tổ chức chính trị-xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để đưa dân tộc ta tiến lên; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát; đồng thời, cải cách triệt để thủ tục hành chính; khơi dậy động lực, tinh thần cống hiến vì đất nước, khơi thông mọi nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nhân dân; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển, có cơ chế tập trung định hướng vào công nghệ, nhất là công nghệ nguồn, công nghệ lõi…
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng trí tuệ tập thể sẽ được phát huy cao độ tại Hội nghị. Ban Chấp hành Trung ương đề cao trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước lịch sử vẻ vang của Đảng và truyền thống cha ông để làm thật tốt các nhiệm vụ với tinh thần công tâm, trong sáng, khoa học, khách quan, thận trọng, kỹ lưỡng, đặt lên hàng đầu lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
Theo https://nhandan.vn/
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới”.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị
1. Trong hơn 94 năm lãnh đạo Cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đưa con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để đưa dân tộc tiếp tục tiến lên đang đặt ra cấp bách.
Khái niệm “đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I. Lênin nêu ra năm 1922. Từ những năm 1925 - 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu về đảng cầm quyền. Bác coi vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng; Đảng giữ trọng trách to lớn đó vì mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”[1], “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”[2], “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[3]. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”[4]. Về cách lãnh đạo, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành riêng một mục nói về vấn đề này. Người đã đặt câu hỏi: “Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào?”[5] và trả lời: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…”. 2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…”. 3) Phải tổ chức sự kiểm soát…”[6]; và để làm cho đúng cả 3 việc, theo Người, đều phải dựa vào dân.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VII của Đảng lần đầu tiên đề cập “đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng”[7], nhấn mạnh cần “quy định cụ thể mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở Trung ương”[8]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”[9]; “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[10]. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII khẳng định “Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua các cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà nước”[11]. Các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII đều tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng; Đại hội XIII nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”[12]. Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” cũng sớm được khẳng định và thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, Hiến pháp và các quy định của pháp luật, cũng như các quy chế, quy định của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các hội quần chúng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng với phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học, thường xuyên được đổi mới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ, sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng đã lập nhiều kỳ tích, đạt được thành tựu vĩ đại. Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 FTA gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân là mục tiêu phấn đấu, Việt Nam được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm sáng về xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Đồng thời, đã hình thành thể chế chính trị ổn định với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng qua nhiều lần kiện toàn, từng bước định hình, đang tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại. Hệ thống chính trị, nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được xây dựng, hoàn thiện, khẳng định vai trò quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thật sự là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thể chế đó ngày càng khẳng định sự phù hợp và tính ưu việt, được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Vẫn còn tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều.
2. Để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ; một số công tác trọng tâm, đó là:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức và thực hiện cho nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị mà Đảng là hạt nhân; lãnh đạo bằng tư tưởng, đường lối, chính sách và sự tiên phong gương mẫu, thường xuyên tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên; bằng thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; sự vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giới thiệu đại biểu ưu tú vào bộ máy nhà nước và thông qua công tác kiểm tra - giám sát. Đảng cầm quyền bằng pháp luật, lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng chấp hành, “thượng tôn” pháp luật. Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước; quyền lực của đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị, đề ra chủ trương, đường lối, còn quyền lực nhà nước là quyền lực quản lý xã hội trên cơ sở pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảng lãnh đạo toàn diện đất nước và chịu trách nhiệm về mọi thành công, thiếu sót trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Xây dựng các cơ quan tham mưu của cấp ủy thực sự tinh gọn; cán bộ tham mưu có phẩm chất chính trị, có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi, tinh thông nghề nghiệp, trách nhiệm và thông thạo công việc. Nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Đổi mới mạnh mẽ tác phong, lề lối làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, với phương châm “đúng vai, thuộc bài”.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện; phải xác định đúng và trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện Nghị quyết của Đảng. Việc quán triệt, thực hiện Nghị quyết phải tạo ra sự tự nhận thức, tự thấm nhuần, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới. Tập trung xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Đảng kiểm tra, giám sát để công việc được thực hiện tốt hơn, nghị quyết được thực hiện hiệu quả; bộ máy của Đảng, Nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đúng chủ trương, đường lối, đúng người, đúng việc; kịp thời phát hiện nhân tố mới, cách làm hay, sáng tạo; uốn nắn, điều chỉnh những biểu hiện lệch lạc, chệch hướng hoặc ngăn chặn những hành vi sai trái, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy cao độ vai trò kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực. Tập trung chuyển đổi số trong công tác đảng; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở, kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu khác, phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
V.I. Lênin đã dạy: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ thuộc loại khác thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”. Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển, đòi hỏi đổi mới không ngừng phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở kiên định các nguyên tắc của Đảng; thấm nhuần lời dạy của Tổng Bí thư Lê Duẩn “Phải lãnh đạo chặt chẽ và có nguyên tắc, không bao giờ lung lay trước những khó khăn, thử thách của cách mạng”./.
T.L
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.5
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.290
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.325
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.325
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.301
[8] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.301
[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.329
[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.330
[11] Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.438, 439
[12] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.196
Theo https://dangcongsan.vn
Cán bộ, đảng viên Cơ quan Đảng uỷ Khối DN tỉnh ủng hộ Nhân dân bị thiệt hại bão số 3
Chiều 12/9, Công đoàn- Cơ quan Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh, đã tổ chức phát động toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động quyên góp ủng hộ Nhân dân bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 theo Lời kêu gọi của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang.
Đ/c Nguyễn Hoàng Trung Bí thư Đảng uỷ và cán bộ, công chức, người lao động tham dự và hưởng ứng.
Với tinh thần tương thân, tương ái, chia sẻ khó khăn với Nhân dân, Thủ trưởng Cơ quan Đảng uỷ Khối kêu gọi toàn thể cán bộ, công chức, người lao động ủng hộ tối thiểu một ngày lương; đồng thời tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện, quyên góp, ủng hộ, cùng với Nhân dân cả nước giúp đồng bào từng bước vượt qua khó khăn do cơn bão số 3 gây ra.
Tại buổi phát động, cán bộ, công chức, người lao động cơ quan Đảng ủy Khối đã ủng hộ 08 triệu đồng. Số tiền này sẽ sớm được gửi tới Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang để chuyển đến đồng bào bị thiệt hại do bão số 3.
Trước đó, với tinh thần chủ động, cán bộ cơ quan đã tham mưu cho Ban Thường vụ Đảng ủy Khối văn bản kêu gọi các doanh nghiệp và cán bộ đảng viên trong Đảng bộ Khối tích cực tham gia ủng hộ theo Lời kêu gọi của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang./.
Nguyễn Hạnh
Công văn về việc triển khai Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật về an ninh mạng
>> Công văn số 979-CV/ĐUK ngày 06/9/2024 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối
>> Kế hoạch tổ chức cuộc thi số 131/KH-TBATANM ngày 02/8/2024 của Tiểu ban an toàn an ninh mạng, UBND tỉnh Bắc Giang
>> Thể lệ Cuộc thi
Ngày 06/9/2024, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Công văn số 979-CV/ĐUK về việc triển khai Cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu pháp luật về an ninh mạng; ứng xử và phòng tránh thông tin giả, các thủ đoạn lừa đảo trên không gian mạng” trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Ban Biên tập đăng nội dung công văn kèm theo Kế hoạch và thể lệ cuộc thi; đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở triển khai, tuyên truyền rộng rãi về mục đích, yêu cầu, nội dung Cuộc thi và vận động cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và người lao động của đơn vị tích cực tham gia hưởng ứng cuộc thi.
Ban Biên tập
Siêu bão Yagi
Mặc dù đã có sự chuẩn bị ứng phó chu đáo từ Trung ương đến các địa phương nhưng chỉ sau hơn một ngày "tấn công" vào một số tỉnh, thành phía Bắc của Việt Nam, cơn bão số 3 - siêu bão Yagi – cơn bão mạnh nhất trong nhiều thập kỷ qua đã để lại những hậu quả nặng nề khiến nhiều người chết và mất tích, hàng trăm người bị thương; nhiều diện tích lúa và hoa màu bị thiệt hại; nhiều nhà ở, trụ sở cơ quan, trường học, các thiết chế văn hóa bị đổ, tốc mái, hư hại nặng nề…
Theo các cơ quan khí tượng đánh giá bão số 3 (Yagi) được cho là siêu bão mạnh nhất trong nhiều thập kỷ qua, thiết lập nhiều kỷ lục mới, cho đến thời điểm này.
Tối 1/9, bão Yagi hình thành trên vùng biển ngoài khơi miền Trung Philippines. Sáng 2/9, bão vượt qua khu vực phía Bắc đảo Lu-Dông (Philippines) đi vào khu vực phía Đông của Biển Đông trở thành cơn bão số 3 năm 2024.
Chỉ sau khoảng 2 ngày, từ cấp 8 bão đã tăng 7 cấp. Và đến 10h sáng ngày 5/9, bão số 3 đạt cường độ cực đại cấp siêu bão (cấp 16, giật trên cấp 17).
Theo các chuyên gia khí tượng, đây là cơn bão rất mạnh, hoàn lưu rộng. Vùng gió mạnh trên cấp 8 có bán kính khoảng 250 km, vùng có gió mạnh trên cấp 10 khoảng 150 km, vùng có gió mạnh trên cấp 12 khoảng 80 km xung quanh tâm bão.
Bão số 3 luôn duy trì cấp siêu bão (từ cấp 16 trở lên) cho đến khi vào đến vùng ven biển phía Đông đảo Hải Nam (Trung Quốc). Sau đó, bão số 3 di chuyển vào Vịnh Bắc Bộ mạnh cấp 13-14, giật trên cấp 16. Khi ảnh hưởng đất liền cường độ mạnh cấp 9-12, giật cấp 13-14.
Vào Việt Nam, bão số 3 và hoàn lưu sau bão có phạm vi ảnh hưởng rộng khắp khu vực Bắc Bộ đến Thanh Hóa (26 tỉnh, thành phố); bão gây mưa lớn cho khu vực Bắc Bộ, nhất là khu vực miền núi phía Bắc đã bị tổn thất rất nặng nề do các đợt mưa lũ, lũ quét, sạt lở đất dồn dập trong tháng 7, tháng 8.
Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn quốc gia đánh giá, đây là cơn bão tăng cấp độ nhanh nhất từ trước đến nay trong lịch sử khí tượng Việt Nam. Lần thứ 3 trong lịch sử cấp độ rủi ro thiên tai (cấp độ 4 màu đỏ) được ban hành và cũng lần đầu tiên trong lịch sử cấp độ 4 được sử dụng ở Vịnh Bắc Bộ.
Sau hơn một ngày "tấn công" vào đất liền Việt Nam, bão số 3 đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc Bộ. Sáng 8/9, áp thấp nhiệt đới đã suy yếu thành vùng áp thấp. Đến chiều tối 8/9, vùng áp thấp tiếp tục di chuyển chủ yếu theo hướng Tây suy yếu và tan dần.
Mặc dù đã đã được cảnh báo và chuẩn bị chu đáo nhưng siêu bão số 3 (Yagi) đi qua đã gây ra thiệt hại rất nặng nề cho một số quốc gia cũng như các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ, bão Yagi đổ bộ vào Philippines trong tối 1/9, gây ra lũ lụt và sạt lở đất tại nhiều khu vực. Theo báo cáo của Hội đồng Quản lý và Giảm thiểu Rủi ro Thảm họa Quốc gia Philippines, bão Yagi đã tấn công một số khu vực của Philippines khiến 16 người đã thiệt mạng, 15 người bị thương, 21 người khác mất tích - Các trường hợp thiệt mạng trong bão Yagi là do lở đất hoặc đuối nước.
Tại Trung Quốc, siêu bão Yagi có sức gió lên tới 245 km/giờ, sau khi đổ bộ vào các tỉnh Hải Nam và Quảng Đông ngày 6/9 đã khiến 4 người thiệt mạng và 95 người bị thương ở Trung Quốc, đồng thời gây mất điện, gián đoạn thông tin liên lạc ở các tỉnh Hải Nam và Quảng Đông; hàng loạt cây cối bật gốc và nhà cửa hư hại nghiêm trọng; 400.000 người phải sơ tán tránh bão…
Tại Việt Nam, siêu bão Yagi ảnh hưởng trực tiếp đến 26 tỉnh, thành khu vực Bắc Bộ đến Thanh Hóa; đặc biệt là các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Ninh Bình và Hà Nội….
Tại Hội nghị đánh giá công tác chỉ đạo ứng phó, tình hình thiệt hại và triển khai các biện pháp cấp bách khắc phục hậu quả cơn bão số 3 do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì vào sáng 8/9 cho biết: Đã có 5 người chết; 186 người bị thương; 25 tàu bị chìm; hơn 3.279 nhà hư hỏng; 401 cột điện gãy đổ; chục ngàn cây xanh đổ, gẫy, bật gốc… Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là những đánh giá sơ bộ được thống kê chưa đầy đủ, sau hơn một ngày bão số 3 hoành hành.
Theo báo cáo của Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tính đến 14h ngày 8/9, bão số 3 đã làm 14 người tử vong, 220 người bị thương và thiệt hại nhiều về tài sản.
Cụ thể, về người: 14 người chết (Quảng Ninh 4, Hải Phòng 2, Hải Dương 1, Hà Nội 1, Hoà Bình 4, Yên Bái 1, Lạng Sơn 1); 1 người mất tích do lũ cuốn (Bắc Giang); 220 người bị thương (Quảng Ninh 157, Hải Phòng 40, Hải Dương 05, Hà Nội 4, Bắc Giang 4, Lạng Sơn 4, Cao Bằng 1, Phú Thọ 2, Hoà Bình 1, Thanh Hoá 2).
Về tài sản: 25 tàu thuyền các loại bị chìm tại nơi neo đậu ở Quảng Ninh; nhiều cột điện và viễn thông bị gãy đổ, 5 đoạn đường dây 500KV, 31 đường dây 220KV, 97 đường dây 110KV, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội bị mất điện, mất liên lạc trên diện rộng; 7.394 nhà ở bị hư hỏng; nhiều cửa hàng, trụ sở, trường học bị tốc mái, hư hỏng; rất nhiều biển hiệu quảng cáo, cây xanh đô thị bị bật gốc, gẫy đổ…
Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia dự báo, từ ngày 8- 9/9, hoàn lưu sau bão số 3 sẽ gây mưa lớn cho cả khu vực các đồng bằng, trung du và vùng núi phía Bắc, với lượng mưa trung bình 24 giờ có thể lên tới 100-150mm, có nơi có thể trên 200mm. Nguy cơ cao xảy ra lũ trên các sông suối và lũ quét, sạt lở đất tại một số địa phương.
Tại Hội nghị Đánh giá công tác chỉ đạo ứng phó, tình hình thiệt hại và triển khai các biện pháp cấp bách khắc phục hậu quả cơn bão số 3, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định: Bão số 3 đã hoành hành trên đất liền hơn một ngày, gây hậu quả nghiêm trọng. Hoàn lưu bão sẽ tiếp tục gây mưa lũ, nhất là các tỉnh miền núi phía bắc.
Thủ tướng yêu cầu đánh giá tình hình, công tác dự báo, công tác tuyên truyền, vận động, cung cấp thông tin cho người dân, thực hiện "4 tại chỗ"; công tác ứng phó ở cả Trung ương và địa phương; đánh giá hậu quả, phân tích, chia sẻ các bài học kinh nghiệm; các biện pháp khắc phục hậu quả trong thời gian ngắn nhất có thể và các biện pháp lâu dài, chiến lược. Thủ tướng yêu cầu rà soát ngay, hỗ trợ cho các địa phương bị thiệt hại, các gia đình có người thiệt mạng. “Trong lúc này, người dân đang phải chịu thiệt hại. Do đó phải bàn với tinh thần khẩn trương; tiếp tục triển khai ngay các công việc khắc phục hậu quả bão; kịp thời xử lý các vấn đề liên quan tới đời sống người dân, sản xuất, kinh doanh, ứng phó sạt lở, sụt lún”- Thủ tướng nhấn mạnh.
Bão cũng tác động tới hệ thống điện, viễn thông, Thủ tướng đã chỉ đạo các nhà mạng liên kết chia sẻ kết nối mạng để bảo đảm sóng viễn thông phục vụ công tác chỉ huy, khắc phục hậu quả thiên tai.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, ngay sau bão số 3, các địa phương đã dồn tổng lực để khắc phục hậu quả.
Hà Nội: Ngày 8/9, đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội và đồng chí Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã đi kiểm tra thực tế và trực tiếp chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả bão số 3 trên địa bàn thành phố.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bí thư và Chủ tịch, các cơ quan, địa phương, đơn vị thuộc thành phố Hà Nội tiếp tục thống kê thiệt hại, đồng thời huy động mọi lực lượng, phương tiện, thiết bị tập trung khắc phục hậu quả cơn bão số 3 gây ra.
Tất cả các lực lượng chức năng đơn vị quận, huyện trên địa bàn thành phố đều ra quân dồn lực khắc phục hậu quả sau bão số 3.
Lực lượng đoàn viên, thanh niên Thủ đô sáng 8/9 phối hợp các lực lượng chức năng dọn dẹp cây đổ, vệ sinh môi trường, thăm hỏi người già neo đơn, hỗ trợ người dân sửa sang nhà cửa; hỗ trợ và bảo đảm nhu yếu phẩm cho người dân....
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội rạng sáng 8/9 điều động 400 cán bộ, chiến sĩ và 14 phương tiện chuyên dùng của lực lượng chủ lực phối hợp lực lượng tại chỗ giúp địa phương khắc phục hậu quả cây đổ tại 8 quận: Hà Đông, Thanh Xuân, Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa, Hoàng Mai, Hai Bà Trưng. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quân đội, dân quân tự vệ giúp nhân dân thu hoạch hoa màu các vùng ngập úng; thăm hỏi, động viên các gia đình gặp nạn..
Tính đến thời điểm hiện tại, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã phối hợp với chính quyền địa phương di dời 249 hộ dân với 690 nhân khẩu tại địa bàn có nguy cơ sạt lở, sập đổ nhà tạm tại các huyện: Ba Vì, Mê Linh, Sơn Tây, Mỹ Đức, Gia Lâm.
Lực lượng dân quân tự vệ tại các địa phương đã trợ giúp nhân dân chằng, buộc nhà cửa, di chuyển tài sản đến nơi an toàn. Trên 3.000 dân quân tự vệ, dân quân thường trực tham gia giúp cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân khắc phục hậu quả.
Ngay từ sáng sớm ngày 8/9, các đơn vị duy trì cây xanh đã huy động toàn bộ lực lượng, phương tiện giải tỏa, thu dọn được trên 570 cây đổ, khoảng 500 cành gãy.
Hiện nay, các đơn vị đang tiếp tục giải tỏa các trường hợp còn lại theo nguyên tắc: Ưu tiên theo thứ tự giải quyết giải tỏa phục vụ đảm bảo giao thông, các tuyến đường trọng điểm, trục chính, nơi có các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện... Dự kiến, trong vòng 24 giờ sẽ hoàn thành công tác giải tỏa trước mắt để đảm bảo giao thông trên các tuyến đường, tuyến phố chính.
Các điểm ngập trên Thành phố Hà Nội cũng đang được các đơn vị thoát nước xử lý, đến trưa ngày 8/9, Hà Nội hầu như không còn điểm ngập nước.
Bão số 3 gây ra trên 181 sự vụ ảnh hưởng đến hệ thống chiếu sáng công cộng như: Chạm chập, mất pha, gãy cột thép, vỡ hỏng đèn... Các sự vụ trên đang được xử lý, giải tỏa kịp thời. Các lực lượng đã xử lý xong 106/181 sự vụ và đang tiếp tục khắc phục trong thời gian sớm nhất đảm bảo công tác chiếu sáng đô thị.
Các sự cố gây hư hỏng nêu trên không ảnh hưởng đến công tác cấp điện hệ thống đèn tín hiệu giao thông. Việc khắc phục dự kiến xong trong ngày 8/9.
Quảng Ninh: Là tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất trong bão số 3, từ sáng sớm 8/9, tất cả người dân thành phố Hạ Long (Quảng Ninh) đổ ra đường, ra ngõ bắt tay vào dọn dẹp đường phố, khơi thông cống rãnh… khắc phục hậu quả của cơn bão số 3 để lại. Người chặt cây, người vác cành, người quét dọn để nhanh chóng thu gom cây đổ, tôn bay, sắt thép bên đường để ngõ, phố thông thoáng, xe cộ đi lại thuận lợi. Đến 9 giờ 30 ngày 8/9, nhiều đường phố, ngõ xóm của Hạ Long đã thông thoáng, phương tiện đi lại bình thường.
Cùng với nhân dân, sáng 8/9, các lực lượng, đơn vị, chính quyền địa phương của tỉnh Quảng Ninh đã tích cực, khẩn trương triển khai công tác khắc phục hậu quả do bão gây ra. Chính quyền các địa phương và lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh đã thành lập các đoàn công tác xuống các địa bàn trọng điểm cùng nhân dân tập trung khắc phục hậu quả. Đến khoảng 8 giờ 30 phút ngày 8/9, một số trạm bơm xăng, dầu trên địa bàn Hạ Long đã kịp thời khắc phục ảnh hưởng của bão, hoạt động trở lại phục vụ nhu cầu của người dân thành phố.
Theo tin của UBND huyện Vân Đồn, sáng 8/9, các lực lượng chức năng của huyện đã tìm kiếm được 6 người mất tích trên biển. Đây là những công nhân trông coi các bè nuôi trồng thuỷ sản. Hiện sức khoẻ của những người này đều ổn định.
Thông tin ban đầu của Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu hộ và phòng thủ dân sự tỉnh Quảng Ninh, các lực lượng chức năng tỉnh Quảng Ninh đã cứu được 46 người bị mắc kẹt trên các tuyến biển, đảo. Công tác tìm kiếm cứu nạn đang được tỉnh Quảng Ninh tiếp tục duy trì triển khai lực lượng với quy mô lớn…
Hải Dương: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và nhân dân tỉnh Hải Dương đang nỗ lực ở mức cao nhất trong khắc phục hậu quả của bão số 3 để ổn định sản xuất, sớm trở lại cuộc sống bình thường.
Lãnh đạo tỉnh Hải Dương chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành và địa phương khẩn trương khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra trên địa bàn và yêu cầu: Các sở, ngành, cơ quan, đơn vị chủ động triển khai công tác khắc phục hậu quả các thiệt hại liên quan đến ngành, lĩnh vực; phối hợp với các huyện, thành phố, thị xã trong việc triển khai khắc phục hậu quả sau bão.
Đối với lĩnh vực giao thông vận tải: Thực hiện đánh giá mức độ thiệt hại đối với các công trình đường giao thông, chủ động sửa chữa bảo đảm an toàn cho người, phương tiện giao thông được thông suốt; hỗ trợ các huyện, thành phố, thị xã bảo đảm kết nối giao thông giữa các địa phương.
Đối với lĩnh vực xây dựng: Tổ chức đánh giá mức độ ảnh hưởng về độ an toàn và công năng sử dụng đối với các các công trình xây dựng bị ảnh hưởng sau bão; cùng với các địa phương rà soát hệ thống cây xanh bị thiệt hại, có phương án trồng thay thế, bổ sung.
Các sở, ban, ngành căn cứ vai trò, nhiệm vụ tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh khắc phục sự cố sau cơn bão số 3 sớm nhất, nhất là dự báo và xây dựng kế hoạch ứng phó với những nguy cơ tiềm ẩn sau cơn bão. Rà soát, phòng ngừa dịch bệnh về người, gia súc, gia cầm có thể xảy ra, bảo đảm vấn đề vệ sinh môi trường.
Theo công ty Điện lực Hải Dương, đến sáng sớm 8/9 đã khôi phục 19/23 trạm 110kV gặp sự cố. Tuy nhiên về lưới điện trung, hạ áp thống kê sơ bộ hơn 800 cột gặp sự cố, rất nhiều đoạn tuyến dây bị đứt; mới cấp điện được khoảng 20.000 khách hàng, 649.000 khách hàng đang bị ảnh hưởng, chờ khắc phục.
Với điều kiện thời tiết và nhân lực hiện tại, trong ngày 8/9, ngành điện của tỉnh Hải Dương sẽ khẩn trương khắc phục sự cố để cấp điện cho các hệ thống chính, nhất là cấp điện cho các trạm bơm; việc khắc phục để cấp điện sinh hoạt cho người dân sẽ đạt khoảng 70%.
Theo Sở Thông tin và Truyền thông Hải Dương, sáng 8/9, các nhà mạng Vinaphone và MobiFone đã hoàn thành phối hợp triển khai dịch vụ roaming miễn phí. Nhà mạng Viettel đã chia sẻ mạng lưới với các nhà mạng khác. Thuê bao các nhà mạng khác có thể sử dụng sóng Viettel và ngược lại.
Sáng 8/9, người dân khắp các địa phương trong tỉnh Hải Dương khẩn trương bắt tay dọn dẹp cây xanh gãy đổ, giải tỏa các tuyến đường giao thông. Dù trời mưa to, bà con nông dân Hải Dương vẫn tranh thủ ra đồng khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra.
Hải Phòng: Trong ngày 8/9, Hải Phòng cũng chỉ đạo toàn tỉnh tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả bão số 3.
Đồng chí Lê Tiến Châu, Bí thư Thành ủy Hải Phòng đề nghị các đơn vị khẩn trương thu dọn vật cản nhằm khôi phục giao thông, sửa chữa khắc phục kết cấu hạ tầng thiết yếu, cấp điện, cấp nước trở lại, khôi phục các hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc; tiêu thoát nước ngập úng, vệ sinh môi trường; tổ chức cảnh báo nguy hiểm đối với các tuyến giao thông, kết cấu hạ tầng hư hại chưa được khôi phục... Các lực lượng chức năng đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn; tổ chức hỗ trợ về y tế đối với các đối tượng bị thiệt hại; động viên, hỗ trợ nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp khẩn trương khắc phục thiệt hại, khôi phục sản xuất, trở lại cuộc sống bình thường; các lực lượng chuyên trách tiếp tục tập trung ứng cứu kịp thời các sự cố có thể xảy ra.
Về điện, Hải Phòng có 5 trạm 220kw, 35 trạm 110kw bị ảnh hưởng. Đến nay có 3/5 trạm 220kw đã được khắc phục. Các huyện An Lão, Kiến An, Tràng Duệ sẽ cố gắng hoàn thiện khắc phục trạm 110 trước 19 giờ tối.
Bắc Ninh: Thông tin từ UBND tỉnh Bắc Ninh, do ảnh hưởng của bão, nhiều công trình, diện tích nông nghiệp, cây xanh bị thiệt hại. Tỉnh đang tập trung chỉ đạo khắc phục sau mưa bão.
Các địa phương trên địa bàn tỉnh huy động các lực lượng hướng dẫn, hỗ trợ người dân có phương án khắc phục sự cố, giảm thiểu thiệt hại do bão gây ra. Về sự cố điện, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn yêu cầu Công ty Điện lực Bắc Ninh tiếp tục ứng trực toàn hệ thống với tinh thần cao nhất, tập trung khắc phục tối đa các sự cố do bão số 3 gây ra. Trong đó, tập trung đảm bảo điện cao nhất cho các bệnh viện, cơ sở sản xuất đặc biệt quan trọng, các trạm bơm, điểm mục tiêu thông tin truyền thông và an ninh quốc phòng.
Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh yêu cầu lãnh đạo Công ty Điện lực Bắc Ninh có phương án bám sát trung tâm chỉ huy để chỉ đạo sâu sát, kịp thời. Khi khắc phục được sự cố, đóng điện trở lại phải đảm bảo an toàn về kỹ thuật, nhất là đảm bảo nguồn điện phục vụ hoạt động cho các điểm trọng yếu.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Ninh cũng đã duy trì 4 đoàn kiểm tra ứng phó, xử lý khắc phục hậu quả bão số 3; đồng thời, yêu cầu các đơn vị thuộc Sở, các Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác công trình thủy lợi Bắc Đuống và Nam Đuống tổ chức trực 100% quân số để chủ động ứng phó với các tình huống thiên tai do bão gây ra; chỉ đạo Chi cục Thủy lợi và các Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác công trình thủy lợi Bắc Đuống, Nam Đuống thường xuyên kiểm tra hệ thống công trình thủy lợi và tình hình tiêu úng của các trạm bơm...
Nam Định: Theo báo cáo của UBND tỉnh Nam Định, ngay trong ngày 8/9, Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, các huyện, thành phố tập trung khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra; trước mắt tiêu úng thoát nước tại khu vực bị úng, ngập để đảm bảo sản xuất nông nghiệp; tập trung sửa chữa đảm bảo hệ thống lưới điện được thông suốt phục vụ sản xuất, sinh hoạt của người dân. Huy động các lực lượng hỗ trợ người dân bị di dời tránh bão trở về nhà và kiểm tra chỗ ở đảm bảo an toàn, hỗ trợ người dân khắc phục các thiệt hại do bão gây ra. Huy động các lực lượng dọn dẹp ngay vệ sinh môi trường, quét dọn các đường, cơ quan, công sở, trường học... để hoạt động bình thường từ ngày mai.
Thái Bình: Tại TP Thái Bình, sáng ngày 8/9, UBND TP đã tổ chức họp triển khai công tác khắc phục hậu quả bão số 3. Ngay trong sáng nay (8/9), các địa phương, đơn vị trong tỉnh đã khẩn trương triển khai công tác khắc phục hậu quả do bão gây ra.
Để nhanh chóng khắc phục do bão số 3 gây ra, UBND tỉnh Thái Bình đã ban hành Công điện số 07/CĐ-UBND, trong đó yêu cầu chính quyền các địa phương, cơ quan, đơn vị và lực lượng chức năng cần ưu tiên khôi phục ngay hoạt động trong các lĩnh vực: Bảo đảm giao thông thông suốt, điện, nước, viễn thông, vệ sinh môi trường…
Khẩn trương thống kê, rà soát thiệt hại do bão gây ra và khẩn trương hỗ trợ người dân khắc phục thiệt hại; tập trung các biện pháp tiêu úng kịp thời, nhanh chóng khôi phục sản xuất; tăng cường công tác kiểm tra đê điều, đặc biệt các vị trí, công trình trọng điểm xung yếu, nếu phát hiện sự cố cần huy động lực lượng, phương tiện, nhân lực và tổ chức củng cố, tu bổ ngay…
Theo https://dangcongsan.vn
Thông tin tổng hợp của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh số tháng 9/2024
Thông tin tổng hợp của BTGĐUK số tháng 9/2024
Ban Biên tập website đăng tải nội dung Thông tin tổng hợp số tháng 9 năm 2024 của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối để các chi, đảng bộ cơ sở, các đồng chí báo cáo viên nghiên cứu, tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên trong đơn vị.
Ban Biên tập
Bác bỏ luận điệu xuyên tạc mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ mang tính nguyên tắc giữa sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân.
Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chính là cơ sở khoa học để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc về mối quan hệ này.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ chủ đạo, là cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Chính vì vậy, mối quan hệ này luôn bị các thế lực thù địch công kích, xuyên tạc.
Thời gian qua, các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ này thường tập trung vào các khía cạnh: (1) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, cho rằng “Đảng không có vai trò lãnh đạo Nhà nước”, Đảng lãnh đạo Nhà nước là “Đảng đứng trên Nhà nước”, “bao biện, làm thay, lấn quyền Nhà nước”; “Đảng đứng trên Hiến pháp và pháp luật”; (2) Phủ nhận vai trò quản lý của Nhà nước, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam (3); Phủ nhận vai trò làm chủ của nhân dân, cho rằng “Đảng độc đoán, chuyên quyền, phi dân chủ”...
Phiên bế mạc Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII/Ảnh minh họa/ TTXVN
Những luận điệu sai trái, xuyên tạc nêu trên là vô căn cứ, bởi lẽ:
Thứ nhất, thực chất mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là cơ chế vận hành, quyết định hiệu quả sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ giữa các chủ thể chính của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Các chủ thể của mối quan hệ này thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các hoạt động của hệ thống chính trị và các đoàn thể chính trị-xã hội đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, bảo đảm cho nhân dân được quyền làm chủ.
Nhân dân làm chủ là một nhân tố không thể tách rời trong cơ chế tổng thể này, vừa là mục tiêu cao nhất khi triển khai thực hiện cơ chế đó trong thực tiễn. Nhân dân tin tưởng và trao quyền lãnh đạo xã hội cho Đảng để Đảng thực hiện khát vọng tự do, dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân lập ra Nhà nước và ủy quyền, ủy nhiệm cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, thay mặt mình thực thi quyền lực nhà nước. Do vậy, Nhà nước với tư cách Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có trách nhiệm bảo đảm để mọi công dân thực hiện tốt nhất các quyền cơ bản của mình theo quy định của pháp luật.
Do vậy, hiệu quả thực sự của sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là bảođảmquyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng thông qua việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đều hướng tới mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ hai, mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ phản ánh mang tính quy luật biện chứng, thể hiện nội dung lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, có sự phân vai rõ ràng giữa các nhân tố. Trong đó, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và nhân dân.
Với Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo về chính trị đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Giới hạn quyền lực của Đảng là lực lượng lãnh đạo, có nghĩa Đảng không phải là Nhà nước, không làm thay công việc của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa cương lĩnh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, kế hoạch, chương trình hành động để thực hiện trong toàn xã hội. Đảng xây dựng chủ trương, đường lối theo nguyên tắc tập trung dân chủ, còn Nhà nước thì cụ thể hóa, thể chế hóa các nhiệm vụ do Đảng đề ra.
Với nhân dân, Đảng thực hiện sự lãnh đạo và tổ chức để nhân dân làm chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân thông qua Nhà nước chứ không phải lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập ở ngoài hay ở trên Nhà nước, bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước. Không có Nhà nước, không thông qua Nhà nước thì Đảng không thể nào lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng lãnh đạo nhân dân là để nhân dân phát huy vai trò và thực hiện quyền làm chủ đất nước và xã hội. Việc phát huy vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và làm chủ của nhân dân luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và nhân dân.
Nhà nước quản lý là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Để thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, hiệu quả, theo nguyên tắc: Nhà nước sinh ra để phục vụ nhân dân. Nhà nước quản lý, thực hiện quyền lực của mình, về thực chất, cũng là thực hiện quyền lực của nhân dân đã ủy quyền cho Nhà nước, từ đó, Nhà nước sẽ hiện thực hóa các quyền, ý chí, nguyện vọng của nhân dân để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công việc quản lý đất nước và xã hội.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN; bằng việc thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật, chương trình, kế hoạch hoạt động và quản lý xã hội. Sự quản lý của Nhà nước không trái với chủ trương, đường lối của Đảng. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước có mối liên hệ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Như vậy, Đảng, Nhà nước không có lợi ích tự thân, sứ mệnh của Đảng, Nhà nước là phục vụ nhân dân; cán bộ, đảng viên, công chức là công bộc, “đầy tớ” của nhân dân.
Nhân dân làm chủ là trung tâm của mối quan hệ này. Nhân dân làm chủ thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp là việc nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước. Tức là nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước) về một vấn đề nào đó và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi hành. Dân chủ đại diện là việc nhân dân thông qua các cơ quan nhà nước, các cá nhân được nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của mình. Đây là hình thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân.Thông qua các hình thức dân chủ này mà nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Nhân dân còn tự thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn theo quy định của pháp luật để thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có thực hiện đúng những “cam kết” đã thỏa thuận với nhân dân hay không. Nhân dân còn thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng theo các hình thức và tiêu chí cụ thể được chế định trong Hiến pháp, các văn bản luật và Điều lệ Đảng. Nhân dân làm chủ vừa là mục tiêu cao nhất của mối quan hệ trên, vừa là thành tố có sự tác động trở lại đối với Đảng và Nhà nước. Đó là nhân tố hết sức quan trọng và cần thiết để Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
Thứ ba, mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở Việt Nam.
Mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta từ năm 1945 đến nay về cơ bản ổn định bao gồm 3 khối: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị này là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong cơ chế vận hành này, bao hàm cả cơ chế thúc đẩy và cơ chế kiểm soát quyền lực giữa 3 chủ thể chính trong hệ thống chính trị Việt Nam: Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân, trong đó, quyền lực của nhân dân là quyền lực gốc.
Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, kiểm soát lẫn nhau, tạo ra động lực của cơ chế, thúc đẩy phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ XHCN đã được chế định trong Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã tạo nền tảng hiến định cho sự ra đời các cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước gồm: (1) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát và phản biện xã hội; (2) Công dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân; (3) Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (bao gồm cả cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong của mỗi quyền (tự kiểm soát mình) và cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền) và cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo luật định.
Thứ tư, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Đảng và Nhà nước đều là những tổ chức thực hiện các ủy quyền quyền lực của nhân dân. Nhân dân ủy quyền lãnh đạo chính trị với 3 thẩm quyền cơ bản: (1) Xây dựng và quyết định đường lối chính trị cho sự phát triển của đất nước; quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia; (2) Đảng giới thiệu các đảng viên ưu tú đủ tiêu chuẩn để nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan đại diện và quyền lực nhà nước, giới thiệu để các cơ quan nhà nước bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo; (3) Thực hiện kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thực hiện các quyền quản lý, điều hành đất nước với 3 thẩm quyền cơ bản, đó là: Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.
Như vậy, tính chất, nội dung, phạm vi quyền lực, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước được xác định là không trùng lặp, phù hợp với vai trò, vị trí và tính chất của mỗi tổ chức. Do đó, nếu nhận thức đúng, vận hành tốt và thông suốt từ phối hợp thống nhất hành động cho đến kiểm soát quyền lực trong từng chủ thể và trong toàn bộ mối quan hệ thì sẽ không có chuyện bao biện, lấn sân nhau.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ mang tính nguyên tắc giữa sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong thực tiễn sẽ góp phần quan trọng hiện thực hóa mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở nước ta. Đồng thời đây là cơ sở khoa học để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc mối quan hệ này.
Theo https://www.qdnd.vn
PGS, TS PHAN TRỌNG HÀO, Hội đồng Lý luận Trung ương
55 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội
55 năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi vĩnh hằng, nhưng những di huấn, tư tưởng của Người về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội vẫn vẹn nguyên giá trị, luôn là sợi chỉ đỏ nhất quán, xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng, của dân tộc trong công cuộc đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập Tổ quốc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là điểm hội tụ tinh hoa tư tưởng và mục tiêu hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trọn cuộc đời, Người luôn cống hiến, hy sinh vì mục tiêu cao cả đó. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc lịch sử. Di chúc kết tinh toàn bộ tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam, đưa ra những chỉ dẫn cụ thể, sâu sắc để cách mạng nước ta đạt thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người bày tỏ: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Di chúc của Người đã trở thành kim chỉ nam định hướng con đường cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nội dung Di chúc khẳng định những vấn đề có tính chất chiến lược, căn cốt:
Một là, độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam, luôn gắn liền và là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Từ “hành trình khát vọng”, qua lao động, học tập, nghiên cứu lý luận, nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều quốc gia trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc thế giới quan và phương pháp luận cách mạng. Tất cả tâm nguyện, chí hướng của Người đều hướng vào mục tiêu, “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Với nhãn quan chính trị và tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra ánh sáng chiếu rọi từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và chủ nghĩa Mác - Lênin đối với con đường giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ, chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ, đem lại cho nhân loại một xã hội tốt đẹp, tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no. Người không ngừng truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, vận động nhân dân “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đưa đến sự ra đời của Ðảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, sáng tạo, phù hợp giữa lý luận và thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc, phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Tư tưởng, đường lối đó của Người thể hiện sự hài hòa của quy luật tự nhiên-xã hội: Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để tiến tới giải phóng triệt để con người. Độc lập-Tự do-Hạnh phúc là con đường phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách mạng, là triết lý phát triển của cách mạng nước ta trong thời đại mới.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng sinh động, khẳng định quan điểm, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa nước ta từ “tình hình đen tối như không có đường ra” đến “xé tan cái màn đen tối” để bước ra ánh sáng, trở thành một nước “hoàn toàn tự do và độc lập”, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Thắng lợi đó đã đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục khẳng định, bảo toàn thành quả cách mạng qua cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm chống thực dân Pháp.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ giá trị tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội được nâng lên tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình”. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không thể tách rời công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội, phải “làm cho chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Bắc đều hơn hẳn miền Nam, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam và của cả toàn dân”.
Cho đến những năm tháng cuối cuộc đời, điều trăn trở nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là độc lập dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Sự nghiệp thống nhất đất nước chưa hoàn thành trọn vẹn, đồng bào miền Nam còn chịu cảnh đô hộ của ngoại xâm vẫn luôn là một nỗi đau sâu thẳm trong trái tim Người. Nỗi niềm đó Người gửi gắm lại cho Đảng, cho những người kế tục sự nghiệp cách mạng với lòng mong muốn, tin tưởng, quyết tâm vào thắng lợi cuối cùng. Người nhấn mạnh: “CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người... Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi... Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
“Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Lời dặn của Người như lời hiệu triệu, cổ vũ, khích lệ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng đã chỉ rõ tính chất gian khổ, khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến, những nhiệm vụ cần làm để củng cố, giữ vững nền độc lập sau khi thống nhất.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc - một nền độc lập đích thực, triệt để.
Trên hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận với nhiều học thuyết, mô hình cách mạng khác nhau, Người rút ra kết luận: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Người xác định, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, chân chính, khoa học, phù hợp hơn ngoài con đường cách mạng vô sản. Cách mạng Việt Nam phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt hành trình cách mạng, nhận thức, tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ, thống nhất về lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, có sự phát triển sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa dân tộc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Trong Di chúc của Người thể hiện rất rõ đặc trưng, bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta mong muốn xây dựng, đó là: Hòa bình, thống nhất, giàu mạnh, dân chủ, ấm no, hạnh phúc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Nhân dân phải là người trực tiếp thụ hưởng sự giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc của đất nước. Đó là một xã hội tốt đẹp, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bảo đảm phúc lợi cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là người già, trẻ em, thương binh, gia đình liệt sĩ; một xã hội tạo mọi điều kiện cho người dân được tự do, bình đẳng, vươn lên phát triển bản thân, tham gia vào sự nghiệp cách mạng; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học-kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân; một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh, hòa bình, hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Di chúc cũng chỉ rõ phương thức đi lên chủ nghĩa xã hội, phác thảo kế hoạch hành động của Đảng và nhân dân ta sau khi chiến tranh kết thúc, coi trọng khắc phục hậu quả, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi, phát triển các ngành nghề, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ kế cận sự nghiệp cách mạng, tạo mọi điều kiện cho người dân có động lực phấn đấu, vươn lên trở thành những con người mới, chủ nhân của xã hội tiến bộ. Đặc biệt, Di chúc khái quát hết sức cô đọng, sâu sắc về yêu cầu đổi mới và sự nghiệp đổi mới của Đảng, con đường cần thiết, tất yếu khi đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm, tiềm lực quốc gia còn yếu - “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.
Người yêu cầu, Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, lấy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản và văn hóa trong thể chế Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân làm sức mạnh tiêu biểu, nêu gương, thuyết phục nhân dân. Đây là yếu tố then chốt trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ba là, điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Xuyên suốt bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội luôn hòa quyện, gắn kết và được phản ánh một cách rõ nét, logic, biện chứng. Độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc đích thực, triệt để, song cần có các điều kiện bảo đảm sau đây:
(i) Phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất. Có như vậy, Đảng mới bảo đảm và phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, năng lực, sức mạnh, sức chiến đấu, khả năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
(ii) Phải phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, đặc biệt là phát huy tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
(iii) Phải đặt cách mạng Việt Nam trong mối liên hệ mật thiết với cách mạng thế giới, gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng đều là thắng lợi và thành tựu chung của cách mạng thế giới. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc... Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mọi tiến trình cách mạng. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn tiến công mạnh mẽ, ngày chiến thắng của dân tộc Việt Nam đang đến gần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mãi mãi đi xa, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng và toàn dân tộc. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng và nhân dân ta quyết tâm “Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước... Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”, kiên định, kiên trung, kiên quyết, không chùn bước, dao động.
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên cả hai miền Nam-Bắc, nhân dân ta “anh dũng phấn đấu, hăng hái vươn lên, đạp bằng mọi trở lực, chông gai”, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến, phát triển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, làm nên Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đưa non sông về một mối. Đất nước đã thống nhất hoàn toàn trên phương diện thể chế, chế độ chính trị, đưa cả nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội, bảo toàn trọn vẹn thành quả của Cách mạng Tháng Tám, hoàn thành di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”.
Thắng lợi này một lần nữa khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cho thấy sự phù hợp về cả lý luận và thực tiễn của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong kỷ nguyên mới. Khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển đất nước, và độc lập dân tộc chỉ được bảo đảm khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giành được độc lập mà không đi lên chủ nghĩa xã hội không những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Vì vậy, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm, phương châm, nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt và tất yếu.
“Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại, song vẫn phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng trước mắt là cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, tạo tiền đề cơ bản để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đảng ta lãnh đạo triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm lần thứ nhất (1976-1980) và 5 năm lần thứ hai (1981-1985). Hạ tầng kinh tế-xã hội, các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục-đào tạo, giao thông, thủy lợi từng bước được khôi phục và mở rộng. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được quan tâm phát triển, đóng góp quan trọng vào sự phục hồi của nền kinh tế quốc dân, tạo bước đi cần thiết cho những giai đoạn tiếp theo.
Bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, trước những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đất nước đã hòa bình, giải quyết những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nhất là sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở ra chương mới cho sự phát triển của đất nước. Đại hội khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ: Toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nổi bật trên các khía cạnh:
(1) Lý luận về đường lối đổi mới, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện về mô hình, đặc trưng, những quan hệ lớn mang tính quy luật cũng như những bước đi của thời kỳ quá độ. Tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là lựa chọn tất yếu, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của thời đại, tạo động lực phát triển toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhưng có thể khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
(2) Phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tạo ra bước đi cần thiết cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển con người và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trở thành nền tảng, sức mạnh nội sinh, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, kết hợp với phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngay từ khi “nước chưa nguy”. Xây dựng đường lối đối ngoại mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Từ một nước nghèo, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Hiện nay, Việt Nam nằm trong nhóm 40 nước có quy mô kinh tế hàng đầu thế giới, với GDP tính theo giá hiện hành tương đương 430 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành tương đương 4.300 USD, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới. Trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng GDP đạt 6,42% - mức cao trên thế giới và khu vực; chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 4,08%; FDI đạt gần 15,2 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 368,5 tỷ USD; khách quốc tế đến Việt Nam đạt 8,83 triệu lượt. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam xếp thứ 107/193 quốc gia, vùng lãnh thổ; Chỉ số hạnh phúc (WHI) xếp thứ 54/143. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ; có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 30 quốc gia, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7), 17/20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20). Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 253 chính đảng ở 115 quốc gia trên thế giới. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức nhân dân có quan hệ đối ngoại với 1.200 tổ chức nhân dân và đối tác nước ngoài.
(3) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tiên phong và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành mạnh mẽ, kiên quyết, kiên trì, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.
(4) Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Khẳng định bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Những thành tựu to lớn qua 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là sau gần 40 năm đổi mới, đã khẳng định đường lối của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn là phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển của thời đại. Những thành tựu đó cũng khẳng định sự kiên định, không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; khẳng định vấn đề mấu chốt - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu, cương lĩnh hành động, mà còn là động lực, niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, gắn kết sức mạnh, sức bật mới, là cội nguồn của mọi thắng lợi từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, nhất định “mang lá cờ bách chiến bách thắng của HỒ CHỦ TỊCH tới đích cuối cùng”.
3. Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, trật tự thế giới “đa cực, đa trung tâm” định hình rõ nét, chi phối mạnh mẽ quan hệ quốc tế; các nước vừa và nhỏ sẽ phải chịu sức ép “chọn bên”. Nguy cơ xuất hiện các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ, chạy đua vũ trang ngày càng rõ rệt. Cộng đồng quốc tế phải đối phó quyết liệt với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới... ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách kinh tế, xã hội, an ninh-quốc phòng các nước.
Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; dự báo đến năm 2045 sẽ tiếp tục có những bước tiến khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh..., tạo tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ lớn được Đảng ta chỉ ra từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn. Cạnh tranh giữa các nước lớn gia tăng, đặt ra những thách thức đối với Việt Nam trong việc giữ vững độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định để phát triển. Những thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; vấn đề giữ vững bản sắc văn hóa, truyền thống; cuộc đấu tranh tư tưởng trong bối cảnh đầy thăng trầm của chủ nghĩa xã hội hiện thực... đang đặt ra những yêu cầu mới về cả lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới.
Phát huy những thành tựu đạt được, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là quan điểm chỉ đạo cốt lõi, cần tiếp tục được quán triệt trong cả nhận thức và hành động. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trên tinh thần đó, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc: (i) Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo bảo đảm phù hợp với thực tiễn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. (ii) Kiên định đường lối đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối chính trị và nhiệm vụ chính trị; nâng cao vai trò, uy tín chính trị của Đảng đối với xã hội, nhân dân và quốc tế.
Hai là, tiếp tục coi trọng tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, như: về công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; về quốc phòng, an ninh, đối ngoại..., từ đó xác định bước đi, định hướng lớn của Đảng, đất nước, hướng đến mục tiêu quan trọng trong những thập kỷ tiếp theo.
Ba là, đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ và sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phát triển nhanh và bền vững, trong đó, thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm; thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò bảo đảm sự phát triển hài hòa với tự nhiên. Sự đúng đắn, hợp lý và đồng bộ trong thể chế phát triển là điều kiện bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững[. Lấy phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là động lực, nguồn lực thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Chú trọng phát huy “sức mạnh mềm” của văn hóa trong phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong điều kiện mới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, bám sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu toàn diện trong giai đoạn mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; bảo đảm Đảng vững mạnh về mọi mặt, có đủ năng lực, uy tín đảm đương sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững; giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu.
Thực hiện nghiêm túc và có kết quả, hiệu quả Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt coi trọng công tác đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo phương châm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; truy tố một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”. Kịp thời cho từ chức, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút, đưa việc “có lên, có xuống, có vào, có ra” trở thành văn hóa, việc làm bình thường trong công tác cán bộ.
Năm là, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, bảo đảm có đủ sức mạnh để đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi từ sớm, từ xa những nhân tố bất ổn dẫn đến các tình huống đe dọa quốc phòng, an ninh. Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”. Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng, an ninh, phát huy kế sách giữ nước bằng biện pháp hòa bình; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp, vị thế đất nước, theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”.
Sáu là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dự báo, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm đồng bộ, thống nhất, toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn, khả thi, lấy hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước làm mục tiêu phấn đấu.
Có thể khẳng định, tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lịch sử và thời đại vô cùng sâu sắc. Hiểu rõ điều đó, 55 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn kiên định, nỗ lực phấn đấu thực hiện những chỉ dẫn quý báu của Người trong Di chúc, đưa nước ta không ngừng vươn lên mạnh mẽ, ngày càng khẳng định uy tín, vị thế quốc tế, có đóng góp quan trọng vào những thành tựu chung của phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ mãi trường tồn, là ngọn đèn soi sáng, dẫn dắt dân tộc ta luôn tiến về phía trước trên hành trình hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Chúng ta nguyện suốt đời trung thành với Người, đem hết tâm hồn và nghị lực, đoàn kết thành một khối sắt thép, phấn đấu quên mình, quyết làm tròn nghĩa vụ cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân ta và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới”.
Theo https://special.nhandan.vn
Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học
Chiều 29/8, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tổ chức Hội thảo khoa học về “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang”. Đồng chí Trần Ngọc Minh, Phó Bí thư Đảng ủy Khối chủ trì Hội thảo.
Quang cảnh Hội thảo
Dự Hội thảo có trên 70 đại biểu là Ủy viên Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh, các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo thực hiện đề tài khoa học cấp cơ sở của Cơ quan Đảng ủy Khối; lãnh đạo các ban, Văn phòng Đảng ủy, Đoàn thể Khối; các đồng chí lãnh đạo cấp ủy các cơ sở đảng trong Khối và đại diện lãnh đạo phòng chuyên môn thuộc Sở KH&CN.
Nội dung Hội thảo nằm trong phạm vi nhiệm vụ Khoa học công nghệ cấp cơ sở do Cơ quan Đảng uỷ Khối chủ trì thực hiện được triển khai từ tháng 2/2024 đến tháng 10 năm 2024. Tính đến thời điểm này, Ban chỉ đạo đề tài đã tổ chức khảo sát, điều tra xã hội học thực tế tại 18 doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh với 250 phiếu. Đồng thời, đã tiến hành tổng hợp, phân tích số liệu và tổ chức nghiên cứu, đánh giá thực trạng để đề ra các giải pháp thiết thực phù hợp với tình hình thực tế và đặc thù của các doanh nghiệp .
Tại Hội thảo, các đại biểu đã thảo luận để làm rõ về kết quả đạt được, những thuận lợi, khó khăn và những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ; đồng thời, đề xuất các giải pháp thiết thực để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang.
Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Trần Ngọc Minh, Phó Bí thư Đảng ủy Khối đánh giá: Nội dung nghiên cứu của Đề tài nhằm đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 301-NQ/TU ngày 09/10/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2023- 2030.
Đồng chí Phó Bí thư đánh giá cao về chất lượng các bài tham luận. Đây là các nội dung đã được nghiên cứu công phu, khoa học, đề xuất nhiều giải pháp sát với điều kiện cụ thể từng doanh nghiệp, khả năng áp dụng và có giá trị thực tiễn cao. Việc nghiên cứu đề tài là hết sức cần thiết trước thực trạng còn nhiều tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang. Đồng chí đề nghị các đại biểu tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thiết thực gửi Ban chỉ đạo thực hiện đề tài khoa học để phục vụ cho công tác nghiên cứu và hoàn thiện đề tài khoa học.
Thông qua hội thảo giúp cho các đồng chí lãnh đạo cấp ủy các cơ sở đảng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ; thường xuyên quan tâm đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và công tác quản lý đảng viên, góp phần nâng cao hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đơn vị, doanh nghiệp.
Ninh Trần
Kế hoạch triển khai Cuộc thi Cuộc thi “Bắc Giang niềm tin và khát vọng”
>> Kế hoạch số 158-KH/ĐUK ngày 214/8/2024 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối
>> Thể lệ Cuộc thi
>> Quyết định số 02-QĐ/BTC ngày 02/8/2024 của Ban Tổ chức Cuộc thi về việc ban hành Bộ câu hỏi phần thi viết
Ngày 21/8/2024, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Kế hoạch số 158-KH/ĐUK về việc triển khai Cuộc thi tuyên truyền về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (Chủ đề: Bắc Giang niềm tin và khát vọng) kèm theo Thể lệ Cuộc thi và Quyết định số 02-QĐ/BTC ngày 02/8/2024 của Ban Tổ chức Cuộc thi về việc ban hành Bộ câu hỏi phần thi viết Cuộc thi “Bắc Giang niềm tin và khát vọng”; đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở triển khai, tuyên truyền rộng rãi về mục đích, yêu cầu, nội dung và Thể lệ Cuộc thi tới cán bộ, đảng viên, người lao động của đơn vị bằng hình thức phù hợp.
Ban Biên tập
Công văn triển khai tuyên truyền kỷ niệm 55 thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm Ngày mất của Người và 70 năm Giải phóng Thủ đô
>> Công văn số 56-CV/BTGĐUK ngày 21/8/2024 của Ban Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối
>> Đề cương tuyên tuyền 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
>> Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô
Ngày 21/8/2024, Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối đã ban hành Công văn số 56-CV/BTGĐUK về việc triển khai tuyên truyền kỷ niệm 55 thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm Ngày mất của Người và 70 năm Giải phóng Thủ đô kèm theo Đề cương tuyên truyền; đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở triển khai, tuyên truyền rộng rãi tới cán bộ, đảng viên, người lao động của đơn vị bằng hình thức phù hợp.
Ban Biên tập
- Hơn 700 đại biểu được bồi dưỡng chuyên đề “Đảng ta thật là vĩ đại” 07/10/2024
- Hướng dẫn công tác tuyên truyền quý IV năm 2024 07/10/2024
- Công văn triệu tập quần chúng ưu tú học lớp Bồi dưỡng LLCT dành cho đảng viên mới tháng 10/2024 04/10/2024
- Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng (15/10/1930 -... 04/10/2024
User Online:16533
Total visited: 6378841