ĐẠI HỘI XI CỦA ĐẢNG – KHÁT VỌNG ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

|
ページビュー:
dark-mode-label OFF
Đọc bài viết
       N?m 2011, ???c xem là n?m c?a nhi?u may m?n, m?i m?, t?t lành. S? ki?n tr?ng ??i m? ??u, th?p niên th? Hai c?a th? k? XXI và là s? ki?n chính tr? ???c trông ??i nh?t là ??i h?i ??i bi?u toàn qu?c l?n th? XI c?a ??ng C?ng s?n Vi?t Nam, di?n ra t? ngày 11 ??n ngày 19 tháng 01.

       N?m 2011, ???c xem là n?m c?a nhi?u may m?n, m?i m?, t?t lành. S? ki?n tr?ng ??i m? ??u, th?p niên th? Hai c?a th? k? XXI và là s? ki?n chính tr? ???c trông ??i nh?t là ??i h?i ??i bi?u toàn qu?c l?n th? XI c?a ??ng C?ng s?n Vi?t Nam, di?n ra t? ngày 11 ??n ngày 19 tháng 01.


       N?m 2011, ???c xem là n?m c?a nhi?u may m?n, m?i m?, t?t lành. S? ki?n tr?ng ??i m? ??u, th?p niên th? Hai c?a th? k? XXI và là s? ki?n chính tr? ???c trông ??i nh?t là ??i h?i ??i bi?u toàn qu?c l?n th? XI c?a ??ng C?ng s?n Vi?t Nam, di?n ra t? ngày 11 ??n ngày 19 tháng 01.


       Sau khi Đại hội XI của Đảng thành công - một điều chắc chắn, xuất phát từ niềm tin khoa học, tình cảm sâu lắng, thiết tha của toàn dân với Đảng; chỉ mươi ngày sau, ngày mồng 1 Tết cổ truyền của dân tộc cũng chính là ngày Đảng ta tròn 81 mùa xuân xây dựng, chiến đấu, trưởng thành. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà không làm ta bất ngờ, vì từ lâu, Xuân và Đảng, Đảng và Xuân đã gắn kết, hòa đồng bền chặt.
       Trước đó, ngày 28 tháng 1, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta xúc động kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau gần 30 năm bôn ba bốn biển năm châu tìm đường cứu nước, về tới Cao Bằng, mảnh đất thiêng đầu nguồn Việt Bắc. “Ôi sáng xuân nay Xuân 41. Trắng rừng biên giới nở hoa mơ. Bác về…im lặng, con chim hót. Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ” (Tố Hữu). Ở đó, Người đặt tên cho một ngọn núi, một dòng suối khởi nguồn sự nghiệp cách mạng của Người và các đồng chí của Người là núi Các Mác, suối Lê nin.
       Vào giữa năm nay, ngày 5 tháng 6 năm 2011, cả nước nước ta lại tưng bừng kỷ niệm tròn 100 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh - trong tên gọi Văn Ba lúc đó, rời bến Nhà Rồng trên chiếc tàu buôn của Pháp tìm đường cứu nước. Sự ra đi, sự trở về của Bác; quãng thời gian 30 năm cả dân tộc rên xiết dưới ách đô hộ của chế độ thực dân, phong kiến…là bao nhiêu máu xương đổ xuống, bao nhiêu nung nấu, ngóng chờ, bao nhiêu âm thầm, phấn đấu và chiến đấu.
       81 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết phấn đấu của toàn dân, nước ta từ thân phận nô lệ đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, đánh thắng các kẻ thù xâm lược hùng mạnh và hung hãn, thu giang sơn về một mối, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
       Trở lại với sự kiện lớn - Đại hội XI của Đảng, đây là sự kiện chính trị mang tầm vóc lịch sử và kỳ vọng to lớn. Tính chất “lịch sử” của Đại hội XI thể hiện trước hết trên nhiều mặt. Sau thời gian tiếp thu ý kiến của toàn Đảng, toàn dân xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI, toàn thể 1378 đại biểu tham dự Đại hội sẽ thảo luận, quyết nghị về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Báo cáo Chính trị trình Ðại hội XI; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; Một số vấn đề cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng cùng các nội dung quan trọng khác.
       Dự thảo Cương lĩnh 2011 khẳng định: Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
       Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
       Mục tiêu tổng quát đến khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để Việt Nam trở thành nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, ấm no, hạnh phúc.
       Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu quan trọng đó, chúng ta cần tập trung thực hiện các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản:
       Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
       Thứ hai, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối sản phẩm. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thực tế phát triển kinh tế những năm qua, nhất là trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, càng cho thấy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò quan trọng, làm nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, gắn với vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước. Bên cạnh đó, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển.
       Thứ ba, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; chăm lo xây dựng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
       Thứ tư, bảo đảm vững chắc quốc phòng, chủ quyền biên giới trên đất liền, trên biển đảo; tăng cường an ninh quốc gia; giữ vững trật tự, an toàn xã hội.
       Thứ năm, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
       Thứ sáu, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
       Thứ bảy, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
       Thứ tám, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
       Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình Đại hội XI, khi đánh giá tình hình kinh tế đất nước 5 năm qua, khẳng định: Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, chúng ta đã ứng phó tương đối tốt, cơ bản giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội gấp 2,5 lần so với giai đoạn 2001 - 2005, bằng mức 42,7% GDP; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (FDI) thực hiện đạt gần 45 tỷ USD, tổng vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỷ USD. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, giải ngân ước đạt 13,8 tỷ USD.
       Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực, đã bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và có lượng lương thực khá lớn cho xuất khẩu. Kinh tế nông thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng suất, chất lương cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ công nghiệp... đã có tác dụng tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo. Đã đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới công nghệ cao. Khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực.
       Cũng dự thảo văn kiện này, khi đánh giá, kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X, đã khẳng định: đất nước ta đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, “đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra, nhưng cũng còn nhiều hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục”; đánh giá 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010: “đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng”; 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội “đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử”.
       Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của nước ta trong 5 năm tới là:  Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm (2011 - 2015) : 7 - 7,5%. Năm 2015, GDP bình quân đầu người khoảng 2.000 USD, gấp 1,7 lần so với năm 2010; cơ cấu GDP : nông nghiệp 17 - 18%, công nghiệp và xây dựng 41 - 42%, dịch vụ 41 - 42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 55%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 12% năm, giảm nhập siêu, phấn đấu đến năm 2020 cân bằng được xuất nhập khẩu. Vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP. Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước đạt 23 - 24% GDP; giảm bội chi ngân sách xuống 4,5% GDP vào năm 2015. Giải quyết việc làm cho 8 triệu lao động. Tốc độ tăng dân số đến năm 2015 khoảng 1 %. Tuổi thọ trung bình năm 2015 đạt 74 tuổi. Tỉ lệ nghèo theo chuẩn mới giảm bình quân 2% năm. Tỷ lệ che phủ rừng năm 2015 đạt 42 – 43 %.
       Về nhiệm vụ chủ yếu của nhiệm kỳ XI, dự thảo Báo cáo Chính trị xác định 5 nhiệm vụ chủ yếu là: (1) Ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; từng bước xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
       (2) Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tập trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đâm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bảo vệ môi trường, chủ động phòng tránh thiên tai, ứng phó có hiệu quả với tình trạng biến đổi khí hậu.
       (3) Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; mở rộng, nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.
       (4) Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương; đẩy mạnh cải cách hành chính và cải cách tư pháp; thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
       (5) Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
       Để đạt được mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên, nước ta đang phấn đấu đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế. Chuyển mạnh từ tăng trưởng chủ yếu nhờ khai thác, xuất khẩu tài nguyên, thâm dụng vốn công nghiệp gia công lắp ráp… sang tăng trưởng chủ yếu nhờ ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, lao động có trình độ cao, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao. Khắc phục nhanh những tiềm ẩn gây mất ổn định kinh tế vĩ mô, như tình trạng thâm hụt ngân sách, nhập siêu lớn kéo dài, tình trạng nợ công, nợ quốc gia tăng cao. Đổi mới mô hình tổ chức quản lý, tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
       Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế. Phát triển kinh tế - xã hội hài hòa giữa các vùng, miền, đô thị và nông thôn. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Phát triển và nâng cao hiệu quả các lĩnh vực khoa học, công nghệ; phát triển kinh tế tri thức. Coi trọng bảo vệ môi trường, chủ động phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Có các giải pháp mạnh mẽ, hợp lý để giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, như: việc làm, tiền lương, thu nhập, mất cân bằng giới tính, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân, phát triển giáo dục, y tế gắn với việc thu học phí, viện phí, tiền thuốc chữa bệnh một cách hợp lý; ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, bạo lực học đường. Mở rộng dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực; phát huy dân chủ trong Đảng, Nhà nước và trong toàn xã hội; đổi mới mạnh mẽ hệ thống chính trị, tháo gỡ các rào cản để giải phóng năng lực con người, thúc đẩy quá trình đổi mới, sáng tạo.
       Đại hội XI của Đảng cũng sẽ thảo luận và thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 10 năm tới 2011 - 2020. Quyết tâm chính trị là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.
       Trong 10 năm tới, chúng ta phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010. GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3000 USD. Bảo đảm kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm. Tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm khoảng 30 - 35% tổng lao động xã hội. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới ở mức 50%.
       Tập trung vào 3 khâu đột phá chiến lược: (1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. (2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát trên nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.
       Đại hội XI của Đảng và Xuân Tân Mão 2011 đang được nhân dân trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài chào đón với bao dự cảm, bao ước vọng về một bước phát triển mạnh mẽ, vững bền của Đảng, của đất nước, của dân tộc Việt Nam, không chỉ 365 ngày, 1.825 ngày (của 5 năm) mà cho cho 3.650 ngày (của 10 năm) và muôn mùa xuân sau nữa./.
                               Theo Trang tin điện tử Đại hội XI

User Online:29520

Total visited: 8870267