Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII khai mạc Hội nghị lần thứ 10
NDO - Sáng 18/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tổ chức Hội nghị lần thứ 10. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự và phát biểu khai mạc Hội nghị.
Phiên khai mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Trước khi diễn ra chương trình hội nghị, Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu dành một phút mặc niệm cán bộ, chiến sĩ, đồng bào đã thiệt mạng do cơn bão số 3.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh, Hội nghị diễn ra vào thời điểm rất đặc biệt: Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, nhà tư tưởng, ngọn cờ lý luận của Đảng đã vĩnh biệt chúng ta vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang quyết tâm thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; cơn bão số 3 gây thiệt hại hết sức nặng nề về người và tài sản ở hầu hết các tỉnh, thành phố phía bắc; khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang tập trung nỗ lực cao nhất để khắc phục hậu quả do cơn bão gây ra... Hội nghị Trung ương lần này diễn ra sớm hơn và ngắn hơn dự kiến, làm việc cả ngoài giờ hành chính. Hội nghị thảo luận, cho ý kiến về 10 nội dung thuộc 2 nhóm vấn đề chiến lược và một số việc cụ thể.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước biểu quyết thông qua chương trình hội nghị. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị, các đồng chí dự Hội nghị tiếp tục dành thời gian nghiên cứu để có những ý kiến thật xác đáng, phản ánh đúng thực tiễn của bộ, ngành, địa phương. Tập trung đóng góp những vấn đề cụ thể và những vấn đề có tính khái quát, nhất là những vấn đề thực tiễn đặt ra chưa được đề cập trong dự thảo các văn kiện nhưng cần phải đánh giá tổng kết các nội dung quan trọng về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những chủ trương chính sách đổi mới có tính chiến lược đột phá, khả thi cao.
Khẳng định Đại hội XIV là Đại hội đánh dấu thời điểm đất nước bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đòi hỏi ngay từ quá trình xây dựng văn kiện, mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị cần phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm gợi mở một số vấn đề trọng tâm các công việc để tăng tốc “về đích” thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 10, khóa XIII. (Ảnh: ĐĂNG KHOA)
Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là mục tiêu cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong năm 2025; là nền tảng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng tới 100 năm thành lập Nước. Mục tiêu này cần phải được thực hiện với quyết tâm cao nhất, nỗ lực lớn nhất, hành động quyết liệt với giải pháp thực hiện hiệu quả nhất, bảo đảm phải đạt và phấn đấu vượt các mục tiêu đề ra; đây là trách nhiệm của Đảng trước nhân dân, trước lịch sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc, trước bạn bè quốc tế; là minh chứng khẳng định năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, do vậy phải tập trung mọi nguồn lực, biện pháp để hoàn thành. Dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2025 đã đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu; phân tích khả năng hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025 trên cơ sở tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024. Bộ Chính trị đã thảo luận rất kỹ, đánh giá toàn diện, cân nhắc mọi mặt và quyết định báo cáo để Trung ương thảo luận, cho ý kiến.
Về công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh 3 vấn đề cần tập trung thảo luận làm rõ: về các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng; về chuẩn bị nhân sự cho Đại hội XIV; về Công tác Xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng.
Với vị trí Báo cáo chính trị là trung tâm; Tổng kết 40 năm đổi mới là báo cáo rất quan trọng để chắt lọc tinh hoa đưa vào Văn kiện Đại hội XIV; Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, Báo cáo công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng là các báo cáo chuyên đề, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đề nghị các đồng chí dự Hội nghị tập trung thảo luận làm rõ: Nội dung Báo cáo chính trị trình Hội nghị đã đáp ứng tầm mức của báo cáo trung tâm ở tầm quan điểm, đường lối, chủ trương, đã đúc kết giá trị của quá khứ, hiện tại và hướng tới tương lai chưa? đã là “ngọn đuốc soi đường” dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đạt các mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII đã đề ra hay chưa? Các báo cáo chiến lược về phát triển kinh tế-xã hội; xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng; những vấn đề lý luận và thực tiễn được đúc rút qua tổng kết 40 năm đổi mới đã bao hàm đầy đủ căn cứ cho những luận điểm khái quát trong Báo cáo chính trị chưa? Các báo cáo có nhất quán với nhau và có nhất quán với quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển đất nước giai đoạn 2026-2030 và tầm nhìn đến năm 2045 hay chưa? Nội dung cụ thể trong từng báo cáo, nhất là những đánh giá về tồn tại, hạn chế và phương hướng chiến lược, nhiệm vụ đột phá đã đề ra. Cần làm rõ, những chủ trương, biện pháp đã “đúng”, “trúng” có đủ sức đột phá để đưa đất nước bước sang kỷ nguyên mới hay chưa? những yếu tố mới của thực tiễn cần bổ sung là gì?
Trung ương tiếp tục tập trung thảo luận một số vấn đề cụ thể, về đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ tiếp theo; về phương hướng, giải pháp chiến lược, trong đó, tinh gọn bộ máy Tổ chức Đảng, Nhà nước, Quốc hội, các tổ chức chính trị-xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để đưa dân tộc ta tiến lên; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát; đồng thời, cải cách triệt để thủ tục hành chính; khơi dậy động lực, tinh thần cống hiến vì đất nước, khơi thông mọi nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nhân dân; đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển, có cơ chế tập trung định hướng vào công nghệ, nhất là công nghệ nguồn, công nghệ lõi…
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng trí tuệ tập thể sẽ được phát huy cao độ tại Hội nghị. Ban Chấp hành Trung ương đề cao trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, trước lịch sử vẻ vang của Đảng và truyền thống cha ông để làm thật tốt các nhiệm vụ với tinh thần công tâm, trong sáng, khoa học, khách quan, thận trọng, kỹ lưỡng, đặt lên hàng đầu lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.
Theo https://nhandan.vn/
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới”.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị
1. Trong hơn 94 năm lãnh đạo Cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đưa con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để đưa dân tộc tiếp tục tiến lên đang đặt ra cấp bách.
Khái niệm “đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I. Lênin nêu ra năm 1922. Từ những năm 1925 - 1927, trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu về đảng cầm quyền. Bác coi vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng; Đảng giữ trọng trách to lớn đó vì mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”[1], “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”[2], “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”[3]. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”[4]. Về cách lãnh đạo, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành riêng một mục nói về vấn đề này. Người đã đặt câu hỏi: “Lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào?”[5] và trả lời: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1) Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng…”. 2) Phải tổ chức sự thi hành cho đúng…”. 3) Phải tổ chức sự kiểm soát…”[6]; và để làm cho đúng cả 3 việc, theo Người, đều phải dựa vào dân.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VII của Đảng lần đầu tiên đề cập “đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng”[7], nhấn mạnh cần “quy định cụ thể mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở các cấp, trước hết là ở Trung ương”[8]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 xác định phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị”[9]; “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”[10]. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII khẳng định “Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; lãnh đạo thông qua tổ chức đảng chứ không chỉ thông qua các cá nhân đảng viên; lãnh đạo bằng các quyết định của tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước, chứ không điều hành thay Nhà nước”[11]. Các Đại hội VIII, IX, X, XI và XII đều tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng; Đại hội XIII nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới”[12]. Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” cũng sớm được khẳng định và thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, Hiến pháp và các quy định của pháp luật, cũng như các quy chế, quy định của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các hội quần chúng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng với phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học, thường xuyên được đổi mới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ, sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, sự nghiệp đổi mới nói riêng đã lập nhiều kỳ tích, đạt được thành tựu vĩ đại. Từ một đất nước chưa có tên trên bản đồ thế giới, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, Việt Nam đã vươn lên trở thành biểu tượng hòa bình, ổn định, hiếu khách, điểm đến của các nhà đầu tư và du khách quốc tế. Từ một nền kinh tế lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên lọt vào Top 40 nền kinh tế hàng đầu, có quy mô thương mại trong Top 20 quốc gia trên thế giới, mắt xích quan trọng trong 16 FTA gắn kết với 60 nền kinh tế chủ chốt ở khu vực và toàn cầu. Từ một đất nước bị bao vây cô lập, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, và là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân là mục tiêu phấn đấu, Việt Nam được Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế xem như một câu chuyện thành công, một điểm sáng về xóa đói giảm nghèo, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Đồng thời, đã hình thành thể chế chính trị ổn định với cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng qua nhiều lần kiện toàn, từng bước định hình, đang tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại. Hệ thống chính trị, nòng cốt là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được xây dựng, hoàn thiện, khẳng định vai trò quản lý, điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thật sự là tổ chức đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thể chế đó ngày càng khẳng định sự phù hợp và tính ưu việt, được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ, bạn bè quốc tế đánh giá cao.
Tuy nhiên, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Vẫn còn tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao. Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều.
2. Để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ; một số công tác trọng tâm, đó là:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức và thực hiện cho nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị mà Đảng là hạt nhân; lãnh đạo bằng tư tưởng, đường lối, chính sách và sự tiên phong gương mẫu, thường xuyên tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên; bằng thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; sự vận động, thuyết phục nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giới thiệu đại biểu ưu tú vào bộ máy nhà nước và thông qua công tác kiểm tra - giám sát. Đảng cầm quyền bằng pháp luật, lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng chấp hành, “thượng tôn” pháp luật. Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước; quyền lực của đảng cầm quyền là quyền lực về chính trị, đề ra chủ trương, đường lối, còn quyền lực nhà nước là quyền lực quản lý xã hội trên cơ sở pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Đảng lãnh đạo toàn diện đất nước và chịu trách nhiệm về mọi thành công, thiếu sót trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Xây dựng các cơ quan tham mưu của cấp ủy thực sự tinh gọn; cán bộ tham mưu có phẩm chất chính trị, có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi, tinh thông nghề nghiệp, trách nhiệm và thông thạo công việc. Nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. Đổi mới mạnh mẽ tác phong, lề lối làm việc theo hướng khoa học, chuyên nghiệp, với phương châm “đúng vai, thuộc bài”.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện; phải xác định đúng và trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện Nghị quyết của Đảng. Việc quán triệt, thực hiện Nghị quyết phải tạo ra sự tự nhận thức, tự thấm nhuần, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới. Tập trung xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Đảng kiểm tra, giám sát để công việc được thực hiện tốt hơn, nghị quyết được thực hiện hiệu quả; bộ máy của Đảng, Nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đúng chủ trương, đường lối, đúng người, đúng việc; kịp thời phát hiện nhân tố mới, cách làm hay, sáng tạo; uốn nắn, điều chỉnh những biểu hiện lệch lạc, chệch hướng hoặc ngăn chặn những hành vi sai trái, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát huy cao độ vai trò kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực. Tập trung chuyển đổi số trong công tác đảng; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở, kết nối đồng bộ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu khác, phục vụ hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
V.I. Lênin đã dạy: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết nhiệm vụ thuộc loại khác thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”. Thực tiễn đổi mới luôn vận động, phát triển, đòi hỏi đổi mới không ngừng phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trên cơ sở kiên định các nguyên tắc của Đảng; thấm nhuần lời dạy của Tổng Bí thư Lê Duẩn “Phải lãnh đạo chặt chẽ và có nguyên tắc, không bao giờ lung lay trước những khó khăn, thử thách của cách mạng”./.
T.L
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.5
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.290
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.289
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.622
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.325
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.325
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.301
[8] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.301
[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.329
[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Sđd, tr.330
[11] Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.438, 439
[12] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.196
Theo https://dangcongsan.vn
Cán bộ, đảng viên Cơ quan Đảng uỷ Khối DN tỉnh ủng hộ Nhân dân bị thiệt hại bão số 3
Chiều 12/9, Công đoàn- Cơ quan Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh, đã tổ chức phát động toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, người lao động quyên góp ủng hộ Nhân dân bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 theo Lời kêu gọi của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang.
Đ/c Nguyễn Hoàng Trung Bí thư Đảng uỷ và cán bộ, công chức, người lao động tham dự và hưởng ứng.
Với tinh thần tương thân, tương ái, chia sẻ khó khăn với Nhân dân, Thủ trưởng Cơ quan Đảng uỷ Khối kêu gọi toàn thể cán bộ, công chức, người lao động ủng hộ tối thiểu một ngày lương; đồng thời tích cực tham gia các hoạt động thiện nguyện, quyên góp, ủng hộ, cùng với Nhân dân cả nước giúp đồng bào từng bước vượt qua khó khăn do cơn bão số 3 gây ra.
Tại buổi phát động, cán bộ, công chức, người lao động cơ quan Đảng ủy Khối đã ủng hộ 08 triệu đồng. Số tiền này sẽ sớm được gửi tới Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang để chuyển đến đồng bào bị thiệt hại do bão số 3.
Trước đó, với tinh thần chủ động, cán bộ cơ quan đã tham mưu cho Ban Thường vụ Đảng ủy Khối văn bản kêu gọi các doanh nghiệp và cán bộ đảng viên trong Đảng bộ Khối tích cực tham gia ủng hộ theo Lời kêu gọi của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang./.
Nguyễn Hạnh
Công văn về việc triển khai Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật về an ninh mạng
>> Công văn số 979-CV/ĐUK ngày 06/9/2024 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối
>> Kế hoạch tổ chức cuộc thi số 131/KH-TBATANM ngày 02/8/2024 của Tiểu ban an toàn an ninh mạng, UBND tỉnh Bắc Giang
>> Thể lệ Cuộc thi
Ngày 06/9/2024, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Công văn số 979-CV/ĐUK về việc triển khai Cuộc thi trực tuyến “Tìm hiểu pháp luật về an ninh mạng; ứng xử và phòng tránh thông tin giả, các thủ đoạn lừa đảo trên không gian mạng” trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Ban Biên tập đăng nội dung công văn kèm theo Kế hoạch và thể lệ cuộc thi; đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở triển khai, tuyên truyền rộng rãi về mục đích, yêu cầu, nội dung Cuộc thi và vận động cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và người lao động của đơn vị tích cực tham gia hưởng ứng cuộc thi.
Ban Biên tập
Siêu bão Yagi
Mặc dù đã có sự chuẩn bị ứng phó chu đáo từ Trung ương đến các địa phương nhưng chỉ sau hơn một ngày "tấn công" vào một số tỉnh, thành phía Bắc của Việt Nam, cơn bão số 3 - siêu bão Yagi – cơn bão mạnh nhất trong nhiều thập kỷ qua đã để lại những hậu quả nặng nề khiến nhiều người chết và mất tích, hàng trăm người bị thương; nhiều diện tích lúa và hoa màu bị thiệt hại; nhiều nhà ở, trụ sở cơ quan, trường học, các thiết chế văn hóa bị đổ, tốc mái, hư hại nặng nề…
Theo các cơ quan khí tượng đánh giá bão số 3 (Yagi) được cho là siêu bão mạnh nhất trong nhiều thập kỷ qua, thiết lập nhiều kỷ lục mới, cho đến thời điểm này.
Tối 1/9, bão Yagi hình thành trên vùng biển ngoài khơi miền Trung Philippines. Sáng 2/9, bão vượt qua khu vực phía Bắc đảo Lu-Dông (Philippines) đi vào khu vực phía Đông của Biển Đông trở thành cơn bão số 3 năm 2024.
Chỉ sau khoảng 2 ngày, từ cấp 8 bão đã tăng 7 cấp. Và đến 10h sáng ngày 5/9, bão số 3 đạt cường độ cực đại cấp siêu bão (cấp 16, giật trên cấp 17).
Theo các chuyên gia khí tượng, đây là cơn bão rất mạnh, hoàn lưu rộng. Vùng gió mạnh trên cấp 8 có bán kính khoảng 250 km, vùng có gió mạnh trên cấp 10 khoảng 150 km, vùng có gió mạnh trên cấp 12 khoảng 80 km xung quanh tâm bão.
Bão số 3 luôn duy trì cấp siêu bão (từ cấp 16 trở lên) cho đến khi vào đến vùng ven biển phía Đông đảo Hải Nam (Trung Quốc). Sau đó, bão số 3 di chuyển vào Vịnh Bắc Bộ mạnh cấp 13-14, giật trên cấp 16. Khi ảnh hưởng đất liền cường độ mạnh cấp 9-12, giật cấp 13-14.
Vào Việt Nam, bão số 3 và hoàn lưu sau bão có phạm vi ảnh hưởng rộng khắp khu vực Bắc Bộ đến Thanh Hóa (26 tỉnh, thành phố); bão gây mưa lớn cho khu vực Bắc Bộ, nhất là khu vực miền núi phía Bắc đã bị tổn thất rất nặng nề do các đợt mưa lũ, lũ quét, sạt lở đất dồn dập trong tháng 7, tháng 8.
Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn quốc gia đánh giá, đây là cơn bão tăng cấp độ nhanh nhất từ trước đến nay trong lịch sử khí tượng Việt Nam. Lần thứ 3 trong lịch sử cấp độ rủi ro thiên tai (cấp độ 4 màu đỏ) được ban hành và cũng lần đầu tiên trong lịch sử cấp độ 4 được sử dụng ở Vịnh Bắc Bộ.
Sau hơn một ngày "tấn công" vào đất liền Việt Nam, bão số 3 đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc Bộ. Sáng 8/9, áp thấp nhiệt đới đã suy yếu thành vùng áp thấp. Đến chiều tối 8/9, vùng áp thấp tiếp tục di chuyển chủ yếu theo hướng Tây suy yếu và tan dần.
Mặc dù đã đã được cảnh báo và chuẩn bị chu đáo nhưng siêu bão số 3 (Yagi) đi qua đã gây ra thiệt hại rất nặng nề cho một số quốc gia cũng như các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ, bão Yagi đổ bộ vào Philippines trong tối 1/9, gây ra lũ lụt và sạt lở đất tại nhiều khu vực. Theo báo cáo của Hội đồng Quản lý và Giảm thiểu Rủi ro Thảm họa Quốc gia Philippines, bão Yagi đã tấn công một số khu vực của Philippines khiến 16 người đã thiệt mạng, 15 người bị thương, 21 người khác mất tích - Các trường hợp thiệt mạng trong bão Yagi là do lở đất hoặc đuối nước.
Tại Trung Quốc, siêu bão Yagi có sức gió lên tới 245 km/giờ, sau khi đổ bộ vào các tỉnh Hải Nam và Quảng Đông ngày 6/9 đã khiến 4 người thiệt mạng và 95 người bị thương ở Trung Quốc, đồng thời gây mất điện, gián đoạn thông tin liên lạc ở các tỉnh Hải Nam và Quảng Đông; hàng loạt cây cối bật gốc và nhà cửa hư hại nghiêm trọng; 400.000 người phải sơ tán tránh bão…
Tại Việt Nam, siêu bão Yagi ảnh hưởng trực tiếp đến 26 tỉnh, thành khu vực Bắc Bộ đến Thanh Hóa; đặc biệt là các tỉnh, thành phố: Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa, Ninh Bình và Hà Nội….
Tại Hội nghị đánh giá công tác chỉ đạo ứng phó, tình hình thiệt hại và triển khai các biện pháp cấp bách khắc phục hậu quả cơn bão số 3 do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì vào sáng 8/9 cho biết: Đã có 5 người chết; 186 người bị thương; 25 tàu bị chìm; hơn 3.279 nhà hư hỏng; 401 cột điện gãy đổ; chục ngàn cây xanh đổ, gẫy, bật gốc… Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là những đánh giá sơ bộ được thống kê chưa đầy đủ, sau hơn một ngày bão số 3 hoành hành.
Theo báo cáo của Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tính đến 14h ngày 8/9, bão số 3 đã làm 14 người tử vong, 220 người bị thương và thiệt hại nhiều về tài sản.
Cụ thể, về người: 14 người chết (Quảng Ninh 4, Hải Phòng 2, Hải Dương 1, Hà Nội 1, Hoà Bình 4, Yên Bái 1, Lạng Sơn 1); 1 người mất tích do lũ cuốn (Bắc Giang); 220 người bị thương (Quảng Ninh 157, Hải Phòng 40, Hải Dương 05, Hà Nội 4, Bắc Giang 4, Lạng Sơn 4, Cao Bằng 1, Phú Thọ 2, Hoà Bình 1, Thanh Hoá 2).
Về tài sản: 25 tàu thuyền các loại bị chìm tại nơi neo đậu ở Quảng Ninh; nhiều cột điện và viễn thông bị gãy đổ, 5 đoạn đường dây 500KV, 31 đường dây 220KV, 97 đường dây 110KV, Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội bị mất điện, mất liên lạc trên diện rộng; 7.394 nhà ở bị hư hỏng; nhiều cửa hàng, trụ sở, trường học bị tốc mái, hư hỏng; rất nhiều biển hiệu quảng cáo, cây xanh đô thị bị bật gốc, gẫy đổ…
Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia dự báo, từ ngày 8- 9/9, hoàn lưu sau bão số 3 sẽ gây mưa lớn cho cả khu vực các đồng bằng, trung du và vùng núi phía Bắc, với lượng mưa trung bình 24 giờ có thể lên tới 100-150mm, có nơi có thể trên 200mm. Nguy cơ cao xảy ra lũ trên các sông suối và lũ quét, sạt lở đất tại một số địa phương.
Tại Hội nghị Đánh giá công tác chỉ đạo ứng phó, tình hình thiệt hại và triển khai các biện pháp cấp bách khắc phục hậu quả cơn bão số 3, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định: Bão số 3 đã hoành hành trên đất liền hơn một ngày, gây hậu quả nghiêm trọng. Hoàn lưu bão sẽ tiếp tục gây mưa lũ, nhất là các tỉnh miền núi phía bắc.
Thủ tướng yêu cầu đánh giá tình hình, công tác dự báo, công tác tuyên truyền, vận động, cung cấp thông tin cho người dân, thực hiện "4 tại chỗ"; công tác ứng phó ở cả Trung ương và địa phương; đánh giá hậu quả, phân tích, chia sẻ các bài học kinh nghiệm; các biện pháp khắc phục hậu quả trong thời gian ngắn nhất có thể và các biện pháp lâu dài, chiến lược. Thủ tướng yêu cầu rà soát ngay, hỗ trợ cho các địa phương bị thiệt hại, các gia đình có người thiệt mạng. “Trong lúc này, người dân đang phải chịu thiệt hại. Do đó phải bàn với tinh thần khẩn trương; tiếp tục triển khai ngay các công việc khắc phục hậu quả bão; kịp thời xử lý các vấn đề liên quan tới đời sống người dân, sản xuất, kinh doanh, ứng phó sạt lở, sụt lún”- Thủ tướng nhấn mạnh.
Bão cũng tác động tới hệ thống điện, viễn thông, Thủ tướng đã chỉ đạo các nhà mạng liên kết chia sẻ kết nối mạng để bảo đảm sóng viễn thông phục vụ công tác chỉ huy, khắc phục hậu quả thiên tai.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, ngay sau bão số 3, các địa phương đã dồn tổng lực để khắc phục hậu quả.
Hà Nội: Ngày 8/9, đồng chí Bùi Thị Minh Hoài, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy, Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội và đồng chí Trần Sỹ Thanh, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã đi kiểm tra thực tế và trực tiếp chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả bão số 3 trên địa bàn thành phố.
Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bí thư và Chủ tịch, các cơ quan, địa phương, đơn vị thuộc thành phố Hà Nội tiếp tục thống kê thiệt hại, đồng thời huy động mọi lực lượng, phương tiện, thiết bị tập trung khắc phục hậu quả cơn bão số 3 gây ra.
Tất cả các lực lượng chức năng đơn vị quận, huyện trên địa bàn thành phố đều ra quân dồn lực khắc phục hậu quả sau bão số 3.
Lực lượng đoàn viên, thanh niên Thủ đô sáng 8/9 phối hợp các lực lượng chức năng dọn dẹp cây đổ, vệ sinh môi trường, thăm hỏi người già neo đơn, hỗ trợ người dân sửa sang nhà cửa; hỗ trợ và bảo đảm nhu yếu phẩm cho người dân....
Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội rạng sáng 8/9 điều động 400 cán bộ, chiến sĩ và 14 phương tiện chuyên dùng của lực lượng chủ lực phối hợp lực lượng tại chỗ giúp địa phương khắc phục hậu quả cây đổ tại 8 quận: Hà Đông, Thanh Xuân, Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy, Đống Đa, Hoàng Mai, Hai Bà Trưng. Đồng thời, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội tiếp tục chỉ đạo các đơn vị quân đội, dân quân tự vệ giúp nhân dân thu hoạch hoa màu các vùng ngập úng; thăm hỏi, động viên các gia đình gặp nạn..
Tính đến thời điểm hiện tại, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội đã phối hợp với chính quyền địa phương di dời 249 hộ dân với 690 nhân khẩu tại địa bàn có nguy cơ sạt lở, sập đổ nhà tạm tại các huyện: Ba Vì, Mê Linh, Sơn Tây, Mỹ Đức, Gia Lâm.
Lực lượng dân quân tự vệ tại các địa phương đã trợ giúp nhân dân chằng, buộc nhà cửa, di chuyển tài sản đến nơi an toàn. Trên 3.000 dân quân tự vệ, dân quân thường trực tham gia giúp cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân khắc phục hậu quả.
Ngay từ sáng sớm ngày 8/9, các đơn vị duy trì cây xanh đã huy động toàn bộ lực lượng, phương tiện giải tỏa, thu dọn được trên 570 cây đổ, khoảng 500 cành gãy.
Hiện nay, các đơn vị đang tiếp tục giải tỏa các trường hợp còn lại theo nguyên tắc: Ưu tiên theo thứ tự giải quyết giải tỏa phục vụ đảm bảo giao thông, các tuyến đường trọng điểm, trục chính, nơi có các cơ quan, công sở, trường học, bệnh viện... Dự kiến, trong vòng 24 giờ sẽ hoàn thành công tác giải tỏa trước mắt để đảm bảo giao thông trên các tuyến đường, tuyến phố chính.
Các điểm ngập trên Thành phố Hà Nội cũng đang được các đơn vị thoát nước xử lý, đến trưa ngày 8/9, Hà Nội hầu như không còn điểm ngập nước.
Bão số 3 gây ra trên 181 sự vụ ảnh hưởng đến hệ thống chiếu sáng công cộng như: Chạm chập, mất pha, gãy cột thép, vỡ hỏng đèn... Các sự vụ trên đang được xử lý, giải tỏa kịp thời. Các lực lượng đã xử lý xong 106/181 sự vụ và đang tiếp tục khắc phục trong thời gian sớm nhất đảm bảo công tác chiếu sáng đô thị.
Các sự cố gây hư hỏng nêu trên không ảnh hưởng đến công tác cấp điện hệ thống đèn tín hiệu giao thông. Việc khắc phục dự kiến xong trong ngày 8/9.
Quảng Ninh: Là tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất trong bão số 3, từ sáng sớm 8/9, tất cả người dân thành phố Hạ Long (Quảng Ninh) đổ ra đường, ra ngõ bắt tay vào dọn dẹp đường phố, khơi thông cống rãnh… khắc phục hậu quả của cơn bão số 3 để lại. Người chặt cây, người vác cành, người quét dọn để nhanh chóng thu gom cây đổ, tôn bay, sắt thép bên đường để ngõ, phố thông thoáng, xe cộ đi lại thuận lợi. Đến 9 giờ 30 ngày 8/9, nhiều đường phố, ngõ xóm của Hạ Long đã thông thoáng, phương tiện đi lại bình thường.
Cùng với nhân dân, sáng 8/9, các lực lượng, đơn vị, chính quyền địa phương của tỉnh Quảng Ninh đã tích cực, khẩn trương triển khai công tác khắc phục hậu quả do bão gây ra. Chính quyền các địa phương và lực lượng vũ trang trên địa bàn tỉnh đã thành lập các đoàn công tác xuống các địa bàn trọng điểm cùng nhân dân tập trung khắc phục hậu quả. Đến khoảng 8 giờ 30 phút ngày 8/9, một số trạm bơm xăng, dầu trên địa bàn Hạ Long đã kịp thời khắc phục ảnh hưởng của bão, hoạt động trở lại phục vụ nhu cầu của người dân thành phố.
Theo tin của UBND huyện Vân Đồn, sáng 8/9, các lực lượng chức năng của huyện đã tìm kiếm được 6 người mất tích trên biển. Đây là những công nhân trông coi các bè nuôi trồng thuỷ sản. Hiện sức khoẻ của những người này đều ổn định.
Thông tin ban đầu của Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu hộ và phòng thủ dân sự tỉnh Quảng Ninh, các lực lượng chức năng tỉnh Quảng Ninh đã cứu được 46 người bị mắc kẹt trên các tuyến biển, đảo. Công tác tìm kiếm cứu nạn đang được tỉnh Quảng Ninh tiếp tục duy trì triển khai lực lượng với quy mô lớn…
Hải Dương: Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và nhân dân tỉnh Hải Dương đang nỗ lực ở mức cao nhất trong khắc phục hậu quả của bão số 3 để ổn định sản xuất, sớm trở lại cuộc sống bình thường.
Lãnh đạo tỉnh Hải Dương chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành và địa phương khẩn trương khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra trên địa bàn và yêu cầu: Các sở, ngành, cơ quan, đơn vị chủ động triển khai công tác khắc phục hậu quả các thiệt hại liên quan đến ngành, lĩnh vực; phối hợp với các huyện, thành phố, thị xã trong việc triển khai khắc phục hậu quả sau bão.
Đối với lĩnh vực giao thông vận tải: Thực hiện đánh giá mức độ thiệt hại đối với các công trình đường giao thông, chủ động sửa chữa bảo đảm an toàn cho người, phương tiện giao thông được thông suốt; hỗ trợ các huyện, thành phố, thị xã bảo đảm kết nối giao thông giữa các địa phương.
Đối với lĩnh vực xây dựng: Tổ chức đánh giá mức độ ảnh hưởng về độ an toàn và công năng sử dụng đối với các các công trình xây dựng bị ảnh hưởng sau bão; cùng với các địa phương rà soát hệ thống cây xanh bị thiệt hại, có phương án trồng thay thế, bổ sung.
Các sở, ban, ngành căn cứ vai trò, nhiệm vụ tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh khắc phục sự cố sau cơn bão số 3 sớm nhất, nhất là dự báo và xây dựng kế hoạch ứng phó với những nguy cơ tiềm ẩn sau cơn bão. Rà soát, phòng ngừa dịch bệnh về người, gia súc, gia cầm có thể xảy ra, bảo đảm vấn đề vệ sinh môi trường.
Theo công ty Điện lực Hải Dương, đến sáng sớm 8/9 đã khôi phục 19/23 trạm 110kV gặp sự cố. Tuy nhiên về lưới điện trung, hạ áp thống kê sơ bộ hơn 800 cột gặp sự cố, rất nhiều đoạn tuyến dây bị đứt; mới cấp điện được khoảng 20.000 khách hàng, 649.000 khách hàng đang bị ảnh hưởng, chờ khắc phục.
Với điều kiện thời tiết và nhân lực hiện tại, trong ngày 8/9, ngành điện của tỉnh Hải Dương sẽ khẩn trương khắc phục sự cố để cấp điện cho các hệ thống chính, nhất là cấp điện cho các trạm bơm; việc khắc phục để cấp điện sinh hoạt cho người dân sẽ đạt khoảng 70%.
Theo Sở Thông tin và Truyền thông Hải Dương, sáng 8/9, các nhà mạng Vinaphone và MobiFone đã hoàn thành phối hợp triển khai dịch vụ roaming miễn phí. Nhà mạng Viettel đã chia sẻ mạng lưới với các nhà mạng khác. Thuê bao các nhà mạng khác có thể sử dụng sóng Viettel và ngược lại.
Sáng 8/9, người dân khắp các địa phương trong tỉnh Hải Dương khẩn trương bắt tay dọn dẹp cây xanh gãy đổ, giải tỏa các tuyến đường giao thông. Dù trời mưa to, bà con nông dân Hải Dương vẫn tranh thủ ra đồng khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra.
Hải Phòng: Trong ngày 8/9, Hải Phòng cũng chỉ đạo toàn tỉnh tập trung mọi nguồn lực khắc phục hậu quả bão số 3.
Đồng chí Lê Tiến Châu, Bí thư Thành ủy Hải Phòng đề nghị các đơn vị khẩn trương thu dọn vật cản nhằm khôi phục giao thông, sửa chữa khắc phục kết cấu hạ tầng thiết yếu, cấp điện, cấp nước trở lại, khôi phục các hệ thống hạ tầng thông tin liên lạc; tiêu thoát nước ngập úng, vệ sinh môi trường; tổ chức cảnh báo nguy hiểm đối với các tuyến giao thông, kết cấu hạ tầng hư hại chưa được khôi phục... Các lực lượng chức năng đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn; tổ chức hỗ trợ về y tế đối với các đối tượng bị thiệt hại; động viên, hỗ trợ nhân dân, tổ chức, doanh nghiệp khẩn trương khắc phục thiệt hại, khôi phục sản xuất, trở lại cuộc sống bình thường; các lực lượng chuyên trách tiếp tục tập trung ứng cứu kịp thời các sự cố có thể xảy ra.
Về điện, Hải Phòng có 5 trạm 220kw, 35 trạm 110kw bị ảnh hưởng. Đến nay có 3/5 trạm 220kw đã được khắc phục. Các huyện An Lão, Kiến An, Tràng Duệ sẽ cố gắng hoàn thiện khắc phục trạm 110 trước 19 giờ tối.
Bắc Ninh: Thông tin từ UBND tỉnh Bắc Ninh, do ảnh hưởng của bão, nhiều công trình, diện tích nông nghiệp, cây xanh bị thiệt hại. Tỉnh đang tập trung chỉ đạo khắc phục sau mưa bão.
Các địa phương trên địa bàn tỉnh huy động các lực lượng hướng dẫn, hỗ trợ người dân có phương án khắc phục sự cố, giảm thiểu thiệt hại do bão gây ra. Về sự cố điện, Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh Vương Quốc Tuấn yêu cầu Công ty Điện lực Bắc Ninh tiếp tục ứng trực toàn hệ thống với tinh thần cao nhất, tập trung khắc phục tối đa các sự cố do bão số 3 gây ra. Trong đó, tập trung đảm bảo điện cao nhất cho các bệnh viện, cơ sở sản xuất đặc biệt quan trọng, các trạm bơm, điểm mục tiêu thông tin truyền thông và an ninh quốc phòng.
Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh yêu cầu lãnh đạo Công ty Điện lực Bắc Ninh có phương án bám sát trung tâm chỉ huy để chỉ đạo sâu sát, kịp thời. Khi khắc phục được sự cố, đóng điện trở lại phải đảm bảo an toàn về kỹ thuật, nhất là đảm bảo nguồn điện phục vụ hoạt động cho các điểm trọng yếu.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bắc Ninh cũng đã duy trì 4 đoàn kiểm tra ứng phó, xử lý khắc phục hậu quả bão số 3; đồng thời, yêu cầu các đơn vị thuộc Sở, các Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác công trình thủy lợi Bắc Đuống và Nam Đuống tổ chức trực 100% quân số để chủ động ứng phó với các tình huống thiên tai do bão gây ra; chỉ đạo Chi cục Thủy lợi và các Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Khai thác công trình thủy lợi Bắc Đuống, Nam Đuống thường xuyên kiểm tra hệ thống công trình thủy lợi và tình hình tiêu úng của các trạm bơm...
Nam Định: Theo báo cáo của UBND tỉnh Nam Định, ngay trong ngày 8/9, Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo các ngành, các huyện, thành phố tập trung khắc phục hậu quả do bão số 3 gây ra; trước mắt tiêu úng thoát nước tại khu vực bị úng, ngập để đảm bảo sản xuất nông nghiệp; tập trung sửa chữa đảm bảo hệ thống lưới điện được thông suốt phục vụ sản xuất, sinh hoạt của người dân. Huy động các lực lượng hỗ trợ người dân bị di dời tránh bão trở về nhà và kiểm tra chỗ ở đảm bảo an toàn, hỗ trợ người dân khắc phục các thiệt hại do bão gây ra. Huy động các lực lượng dọn dẹp ngay vệ sinh môi trường, quét dọn các đường, cơ quan, công sở, trường học... để hoạt động bình thường từ ngày mai.
Thái Bình: Tại TP Thái Bình, sáng ngày 8/9, UBND TP đã tổ chức họp triển khai công tác khắc phục hậu quả bão số 3. Ngay trong sáng nay (8/9), các địa phương, đơn vị trong tỉnh đã khẩn trương triển khai công tác khắc phục hậu quả do bão gây ra.
Để nhanh chóng khắc phục do bão số 3 gây ra, UBND tỉnh Thái Bình đã ban hành Công điện số 07/CĐ-UBND, trong đó yêu cầu chính quyền các địa phương, cơ quan, đơn vị và lực lượng chức năng cần ưu tiên khôi phục ngay hoạt động trong các lĩnh vực: Bảo đảm giao thông thông suốt, điện, nước, viễn thông, vệ sinh môi trường…
Khẩn trương thống kê, rà soát thiệt hại do bão gây ra và khẩn trương hỗ trợ người dân khắc phục thiệt hại; tập trung các biện pháp tiêu úng kịp thời, nhanh chóng khôi phục sản xuất; tăng cường công tác kiểm tra đê điều, đặc biệt các vị trí, công trình trọng điểm xung yếu, nếu phát hiện sự cố cần huy động lực lượng, phương tiện, nhân lực và tổ chức củng cố, tu bổ ngay…
Theo https://dangcongsan.vn
Thông tin tổng hợp của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh số tháng 9/2024
Thông tin tổng hợp của BTGĐUK số tháng 9/2024
Ban Biên tập website đăng tải nội dung Thông tin tổng hợp số tháng 9 năm 2024 của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối để các chi, đảng bộ cơ sở, các đồng chí báo cáo viên nghiên cứu, tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên trong đơn vị.
Ban Biên tập
Bác bỏ luận điệu xuyên tạc mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ mang tính nguyên tắc giữa sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân.
Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ chính là cơ sở khoa học để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc về mối quan hệ này.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ chủ đạo, là cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Chính vì vậy, mối quan hệ này luôn bị các thế lực thù địch công kích, xuyên tạc.
Thời gian qua, các luận điệu xuyên tạc mối quan hệ này thường tập trung vào các khía cạnh: (1) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, cho rằng “Đảng không có vai trò lãnh đạo Nhà nước”, Đảng lãnh đạo Nhà nước là “Đảng đứng trên Nhà nước”, “bao biện, làm thay, lấn quyền Nhà nước”; “Đảng đứng trên Hiến pháp và pháp luật”; (2) Phủ nhận vai trò quản lý của Nhà nước, phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam (3); Phủ nhận vai trò làm chủ của nhân dân, cho rằng “Đảng độc đoán, chuyên quyền, phi dân chủ”...
Phiên bế mạc Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII/Ảnh minh họa/ TTXVN
Những luận điệu sai trái, xuyên tạc nêu trên là vô căn cứ, bởi lẽ:
Thứ nhất, thực chất mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là cơ chế vận hành, quyết định hiệu quả sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ giữa các chủ thể chính của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Các chủ thể của mối quan hệ này thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các hoạt động của hệ thống chính trị và các đoàn thể chính trị-xã hội đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, bảo đảm cho nhân dân được quyền làm chủ.
Nhân dân làm chủ là một nhân tố không thể tách rời trong cơ chế tổng thể này, vừa là mục tiêu cao nhất khi triển khai thực hiện cơ chế đó trong thực tiễn. Nhân dân tin tưởng và trao quyền lãnh đạo xã hội cho Đảng để Đảng thực hiện khát vọng tự do, dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân lập ra Nhà nước và ủy quyền, ủy nhiệm cho cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, thay mặt mình thực thi quyền lực nhà nước. Do vậy, Nhà nước với tư cách Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có trách nhiệm bảo đảm để mọi công dân thực hiện tốt nhất các quyền cơ bản của mình theo quy định của pháp luật.
Do vậy, hiệu quả thực sự của sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là bảođảmquyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng thông qua việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đều hướng tới mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ hai, mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ phản ánh mang tính quy luật biện chứng, thể hiện nội dung lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới chính trị của Đảng ta.
Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, có sự phân vai rõ ràng giữa các nhân tố. Trong đó, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và nhân dân.
Với Nhà nước, Đảng thực hiện sự lãnh đạo về chính trị đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Giới hạn quyền lực của Đảng là lực lượng lãnh đạo, có nghĩa Đảng không phải là Nhà nước, không làm thay công việc của Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa cương lĩnh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật, kế hoạch, chương trình hành động để thực hiện trong toàn xã hội. Đảng xây dựng chủ trương, đường lối theo nguyên tắc tập trung dân chủ, còn Nhà nước thì cụ thể hóa, thể chế hóa các nhiệm vụ do Đảng đề ra.
Với nhân dân, Đảng thực hiện sự lãnh đạo và tổ chức để nhân dân làm chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Đảng lãnh đạo nhân dân thông qua Nhà nước chứ không phải lãnh đạo với tư cách là một chủ thể độc lập ở ngoài hay ở trên Nhà nước, bằng mệnh lệnh, quyền uy chỉ đạo cụ thể đối với các cơ quan nhà nước. Không có Nhà nước, không thông qua Nhà nước thì Đảng không thể nào lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đảng lãnh đạo nhân dân là để nhân dân phát huy vai trò và thực hiện quyền làm chủ đất nước và xã hội. Việc phát huy vai trò và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và làm chủ của nhân dân luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, xã hội và nhân dân.
Nhà nước quản lý là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Để thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện một cách khoa học, chặt chẽ, hiệu quả, theo nguyên tắc: Nhà nước sinh ra để phục vụ nhân dân. Nhà nước quản lý, thực hiện quyền lực của mình, về thực chất, cũng là thực hiện quyền lực của nhân dân đã ủy quyền cho Nhà nước, từ đó, Nhà nước sẽ hiện thực hóa các quyền, ý chí, nguyện vọng của nhân dân để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công việc quản lý đất nước và xã hội.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN; bằng việc thể chế hóa chủ trương của Đảng thành pháp luật, chương trình, kế hoạch hoạt động và quản lý xã hội. Sự quản lý của Nhà nước không trái với chủ trương, đường lối của Đảng. Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước có mối liên hệ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Như vậy, Đảng, Nhà nước không có lợi ích tự thân, sứ mệnh của Đảng, Nhà nước là phục vụ nhân dân; cán bộ, đảng viên, công chức là công bộc, “đầy tớ” của nhân dân.
Nhân dân làm chủ là trung tâm của mối quan hệ này. Nhân dân làm chủ thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp là việc nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước. Tức là nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước) về một vấn đề nào đó và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi hành. Dân chủ đại diện là việc nhân dân thông qua các cơ quan nhà nước, các cá nhân được nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của mình. Đây là hình thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân.Thông qua các hình thức dân chủ này mà nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Nhân dân còn tự thành lập ra các tổ chức, các hội đoàn theo quy định của pháp luật để thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, xem bộ máy đó có thực hiện đúng những “cam kết” đã thỏa thuận với nhân dân hay không. Nhân dân còn thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng theo các hình thức và tiêu chí cụ thể được chế định trong Hiến pháp, các văn bản luật và Điều lệ Đảng. Nhân dân làm chủ vừa là mục tiêu cao nhất của mối quan hệ trên, vừa là thành tố có sự tác động trở lại đối với Đảng và Nhà nước. Đó là nhân tố hết sức quan trọng và cần thiết để Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý.
Thứ ba, mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở Việt Nam.
Mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta từ năm 1945 đến nay về cơ bản ổn định bao gồm 3 khối: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị này là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong cơ chế vận hành này, bao hàm cả cơ chế thúc đẩy và cơ chế kiểm soát quyền lực giữa 3 chủ thể chính trong hệ thống chính trị Việt Nam: Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân, trong đó, quyền lực của nhân dân là quyền lực gốc.
Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, mỗi chủ thể có vai trò, vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, kiểm soát lẫn nhau, tạo ra động lực của cơ chế, thúc đẩy phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ XHCN đã được chế định trong Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 đã tạo nền tảng hiến định cho sự ra đời các cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước gồm: (1) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giám sát và phản biện xã hội; (2) Công dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và các quyền dân chủ trực tiếp cơ bản của công dân; (3) Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp (bao gồm cả cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong của mỗi quyền (tự kiểm soát mình) và cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền) và cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo luật định.
Thứ tư, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Đảng và Nhà nước đều là những tổ chức thực hiện các ủy quyền quyền lực của nhân dân. Nhân dân ủy quyền lãnh đạo chính trị với 3 thẩm quyền cơ bản: (1) Xây dựng và quyết định đường lối chính trị cho sự phát triển của đất nước; quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia; (2) Đảng giới thiệu các đảng viên ưu tú đủ tiêu chuẩn để nhân dân lựa chọn bầu vào các cơ quan đại diện và quyền lực nhà nước, giới thiệu để các cơ quan nhà nước bầu hoặc bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo; (3) Thực hiện kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên và các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân ủy quyền cho Nhà nước thực hiện các quyền quản lý, điều hành đất nước với 3 thẩm quyền cơ bản, đó là: Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp.
Như vậy, tính chất, nội dung, phạm vi quyền lực, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước được xác định là không trùng lặp, phù hợp với vai trò, vị trí và tính chất của mỗi tổ chức. Do đó, nếu nhận thức đúng, vận hành tốt và thông suốt từ phối hợp thống nhất hành động cho đến kiểm soát quyền lực trong từng chủ thể và trong toàn bộ mối quan hệ thì sẽ không có chuyện bao biện, lấn sân nhau.
Mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối quan hệ mang tính nguyên tắc giữa sự lãnh đạo của Đảng, chức năng quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện hiệu quả mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong thực tiễn sẽ góp phần quan trọng hiện thực hóa mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát của hệ thống chính trị ở nước ta. Đồng thời đây là cơ sở khoa học để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc mối quan hệ này.
Theo https://www.qdnd.vn
PGS, TS PHAN TRỌNG HÀO, Hội đồng Lý luận Trung ương
55 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội
55 năm đã trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi vĩnh hằng, nhưng những di huấn, tư tưởng của Người về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội vẫn vẹn nguyên giá trị, luôn là sợi chỉ đỏ nhất quán, xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng, của dân tộc trong công cuộc đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập Tổ quốc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là điểm hội tụ tinh hoa tư tưởng và mục tiêu hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trọn cuộc đời, Người luôn cống hiến, hy sinh vì mục tiêu cao cả đó. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc lịch sử. Di chúc kết tinh toàn bộ tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam, đưa ra những chỉ dẫn cụ thể, sâu sắc để cách mạng nước ta đạt thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người bày tỏ: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Di chúc của Người đã trở thành kim chỉ nam định hướng con đường cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nội dung Di chúc khẳng định những vấn đề có tính chất chiến lược, căn cốt:
Một là, độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam, luôn gắn liền và là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Từ “hành trình khát vọng”, qua lao động, học tập, nghiên cứu lý luận, nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều quốc gia trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc thế giới quan và phương pháp luận cách mạng. Tất cả tâm nguyện, chí hướng của Người đều hướng vào mục tiêu, “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Với nhãn quan chính trị và tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra ánh sáng chiếu rọi từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và chủ nghĩa Mác - Lênin đối với con đường giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ, chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ, đem lại cho nhân loại một xã hội tốt đẹp, tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no. Người không ngừng truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, vận động nhân dân “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, đưa đến sự ra đời của Ðảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, sáng tạo, phù hợp giữa lý luận và thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc, phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Tư tưởng, đường lối đó của Người thể hiện sự hài hòa của quy luật tự nhiên-xã hội: Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để tiến tới giải phóng triệt để con người. Độc lập-Tự do-Hạnh phúc là con đường phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách mạng, là triết lý phát triển của cách mạng nước ta trong thời đại mới.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng sinh động, khẳng định quan điểm, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa nước ta từ “tình hình đen tối như không có đường ra” đến “xé tan cái màn đen tối” để bước ra ánh sáng, trở thành một nước “hoàn toàn tự do và độc lập”, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Thắng lợi đó đã đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục khẳng định, bảo toàn thành quả cách mạng qua cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm chống thực dân Pháp.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ giá trị tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội được nâng lên tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình”. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không thể tách rời công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội, phải “làm cho chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Bắc đều hơn hẳn miền Nam, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam và của cả toàn dân”.
Cho đến những năm tháng cuối cuộc đời, điều trăn trở nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là độc lập dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Sự nghiệp thống nhất đất nước chưa hoàn thành trọn vẹn, đồng bào miền Nam còn chịu cảnh đô hộ của ngoại xâm vẫn luôn là một nỗi đau sâu thẳm trong trái tim Người. Nỗi niềm đó Người gửi gắm lại cho Đảng, cho những người kế tục sự nghiệp cách mạng với lòng mong muốn, tin tưởng, quyết tâm vào thắng lợi cuối cùng. Người nhấn mạnh: “CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người... Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi... Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.
“Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Lời dặn của Người như lời hiệu triệu, cổ vũ, khích lệ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng đã chỉ rõ tính chất gian khổ, khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến, những nhiệm vụ cần làm để củng cố, giữ vững nền độc lập sau khi thống nhất.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc - một nền độc lập đích thực, triệt để.
Trên hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận với nhiều học thuyết, mô hình cách mạng khác nhau, Người rút ra kết luận: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Người xác định, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, chân chính, khoa học, phù hợp hơn ngoài con đường cách mạng vô sản. Cách mạng Việt Nam phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong suốt hành trình cách mạng, nhận thức, tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ, thống nhất về lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, có sự phát triển sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa dân tộc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Trong Di chúc của Người thể hiện rất rõ đặc trưng, bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta mong muốn xây dựng, đó là: Hòa bình, thống nhất, giàu mạnh, dân chủ, ấm no, hạnh phúc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Nhân dân phải là người trực tiếp thụ hưởng sự giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc của đất nước. Đó là một xã hội tốt đẹp, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bảo đảm phúc lợi cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là người già, trẻ em, thương binh, gia đình liệt sĩ; một xã hội tạo mọi điều kiện cho người dân được tự do, bình đẳng, vươn lên phát triển bản thân, tham gia vào sự nghiệp cách mạng; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học-kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân; một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh, hòa bình, hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Di chúc cũng chỉ rõ phương thức đi lên chủ nghĩa xã hội, phác thảo kế hoạch hành động của Đảng và nhân dân ta sau khi chiến tranh kết thúc, coi trọng khắc phục hậu quả, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi, phát triển các ngành nghề, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ kế cận sự nghiệp cách mạng, tạo mọi điều kiện cho người dân có động lực phấn đấu, vươn lên trở thành những con người mới, chủ nhân của xã hội tiến bộ. Đặc biệt, Di chúc khái quát hết sức cô đọng, sâu sắc về yêu cầu đổi mới và sự nghiệp đổi mới của Đảng, con đường cần thiết, tất yếu khi đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm, tiềm lực quốc gia còn yếu - “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”.
Người yêu cầu, Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, lấy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản và văn hóa trong thể chế Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân làm sức mạnh tiêu biểu, nêu gương, thuyết phục nhân dân. Đây là yếu tố then chốt trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ba là, điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Xuyên suốt bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội luôn hòa quyện, gắn kết và được phản ánh một cách rõ nét, logic, biện chứng. Độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc đích thực, triệt để, song cần có các điều kiện bảo đảm sau đây:
(i) Phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất. Có như vậy, Đảng mới bảo đảm và phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, năng lực, sức mạnh, sức chiến đấu, khả năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
(ii) Phải phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, đặc biệt là phát huy tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
(iii) Phải đặt cách mạng Việt Nam trong mối liên hệ mật thiết với cách mạng thế giới, gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng đều là thắng lợi và thành tựu chung của cách mạng thế giới. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc... Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.
2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mọi tiến trình cách mạng. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn tiến công mạnh mẽ, ngày chiến thắng của dân tộc Việt Nam đang đến gần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mãi mãi đi xa, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng và toàn dân tộc. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng và nhân dân ta quyết tâm “Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước... Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”, kiên định, kiên trung, kiên quyết, không chùn bước, dao động.
Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên cả hai miền Nam-Bắc, nhân dân ta “anh dũng phấn đấu, hăng hái vươn lên, đạp bằng mọi trở lực, chông gai”, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến, phát triển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, làm nên Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đưa non sông về một mối. Đất nước đã thống nhất hoàn toàn trên phương diện thể chế, chế độ chính trị, đưa cả nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội, bảo toàn trọn vẹn thành quả của Cách mạng Tháng Tám, hoàn thành di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”.
Thắng lợi này một lần nữa khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cho thấy sự phù hợp về cả lý luận và thực tiễn của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong kỷ nguyên mới. Khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển đất nước, và độc lập dân tộc chỉ được bảo đảm khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giành được độc lập mà không đi lên chủ nghĩa xã hội không những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Vì vậy, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm, phương châm, nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt và tất yếu.
“Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại, song vẫn phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng trước mắt là cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật, tạo tiền đề cơ bản để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đảng ta lãnh đạo triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm lần thứ nhất (1976-1980) và 5 năm lần thứ hai (1981-1985). Hạ tầng kinh tế-xã hội, các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục-đào tạo, giao thông, thủy lợi từng bước được khôi phục và mở rộng. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được quan tâm phát triển, đóng góp quan trọng vào sự phục hồi của nền kinh tế quốc dân, tạo bước đi cần thiết cho những giai đoạn tiếp theo.
Bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, trước những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đất nước đã hòa bình, giải quyết những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nhất là sau sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở ra chương mới cho sự phát triển của đất nước. Đại hội khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ: Toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nổi bật trên các khía cạnh:
(1) Lý luận về đường lối đổi mới, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện về mô hình, đặc trưng, những quan hệ lớn mang tính quy luật cũng như những bước đi của thời kỳ quá độ. Tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là lựa chọn tất yếu, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của thời đại, tạo động lực phát triển toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhưng có thể khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
(2) Phát triển kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tạo ra bước đi cần thiết cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển con người và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trở thành nền tảng, sức mạnh nội sinh, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, kết hợp với phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngay từ khi “nước chưa nguy”. Xây dựng đường lối đối ngoại mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Từ một nước nghèo, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Hiện nay, Việt Nam nằm trong nhóm 40 nước có quy mô kinh tế hàng đầu thế giới, với GDP tính theo giá hiện hành tương đương 430 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành tương đương 4.300 USD, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới. Trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng GDP đạt 6,42% - mức cao trên thế giới và khu vực; chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 4,08%; FDI đạt gần 15,2 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 368,5 tỷ USD; khách quốc tế đến Việt Nam đạt 8,83 triệu lượt. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam xếp thứ 107/193 quốc gia, vùng lãnh thổ; Chỉ số hạnh phúc (WHI) xếp thứ 54/143. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ; có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 30 quốc gia, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7), 17/20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20). Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 253 chính đảng ở 115 quốc gia trên thế giới. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức nhân dân có quan hệ đối ngoại với 1.200 tổ chức nhân dân và đối tác nước ngoài.
(3) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tiên phong và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành mạnh mẽ, kiên quyết, kiên trì, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.
(4) Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Khẳng định bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước theo hướng hoàn thiện thể chế, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Những thành tựu to lớn qua 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là sau gần 40 năm đổi mới, đã khẳng định đường lối của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn là phù hợp với thực tiễn nước ta và xu thế phát triển của thời đại. Những thành tựu đó cũng khẳng định sự kiên định, không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội; khẳng định vấn đề mấu chốt - độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu, cương lĩnh hành động, mà còn là động lực, niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam, gắn kết sức mạnh, sức bật mới, là cội nguồn của mọi thắng lợi từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, nhất định “mang lá cờ bách chiến bách thắng của HỒ CHỦ TỊCH tới đích cuối cùng”.
3. Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, trật tự thế giới “đa cực, đa trung tâm” định hình rõ nét, chi phối mạnh mẽ quan hệ quốc tế; các nước vừa và nhỏ sẽ phải chịu sức ép “chọn bên”. Nguy cơ xuất hiện các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ, chạy đua vũ trang ngày càng rõ rệt. Cộng đồng quốc tế phải đối phó quyết liệt với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới... ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách kinh tế, xã hội, an ninh-quốc phòng các nước.
Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; dự báo đến năm 2045 sẽ tiếp tục có những bước tiến khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh..., tạo tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ lớn được Đảng ta chỉ ra từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn. Cạnh tranh giữa các nước lớn gia tăng, đặt ra những thách thức đối với Việt Nam trong việc giữ vững độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định để phát triển. Những thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; vấn đề giữ vững bản sắc văn hóa, truyền thống; cuộc đấu tranh tư tưởng trong bối cảnh đầy thăng trầm của chủ nghĩa xã hội hiện thực... đang đặt ra những yêu cầu mới về cả lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới.
Phát huy những thành tựu đạt được, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là quan điểm chỉ đạo cốt lõi, cần tiếp tục được quán triệt trong cả nhận thức và hành động. Văn kiện Đại hội nêu rõ: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trên tinh thần đó, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc: (i) Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo bảo đảm phù hợp với thực tiễn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. (ii) Kiên định đường lối đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo, lãnh đạo thực hiện thắng lợi đường lối chính trị và nhiệm vụ chính trị; nâng cao vai trò, uy tín chính trị của Đảng đối với xã hội, nhân dân và quốc tế.
Hai là, tiếp tục coi trọng tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, như: về công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; về quốc phòng, an ninh, đối ngoại..., từ đó xác định bước đi, định hướng lớn của Đảng, đất nước, hướng đến mục tiêu quan trọng trong những thập kỷ tiếp theo.
Ba là, đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ và sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phát triển nhanh và bền vững, trong đó, thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm; thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội, thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò bảo đảm sự phát triển hài hòa với tự nhiên. Sự đúng đắn, hợp lý và đồng bộ trong thể chế phát triển là điều kiện bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững[. Lấy phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là động lực, nguồn lực thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Chú trọng phát huy “sức mạnh mềm” của văn hóa trong phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị trong điều kiện mới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, bám sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu toàn diện trong giai đoạn mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; bảo đảm Đảng vững mạnh về mọi mặt, có đủ năng lực, uy tín đảm đương sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững; giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu.
Thực hiện nghiêm túc và có kết quả, hiệu quả Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt coi trọng công tác đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo phương châm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; truy tố một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”. Kịp thời cho từ chức, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút, đưa việc “có lên, có xuống, có vào, có ra” trở thành văn hóa, việc làm bình thường trong công tác cán bộ.
Năm là, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, bảo đảm có đủ sức mạnh để đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi từ sớm, từ xa những nhân tố bất ổn dẫn đến các tình huống đe dọa quốc phòng, an ninh. Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”. Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng, an ninh, phát huy kế sách giữ nước bằng biện pháp hòa bình; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp, vị thế đất nước, theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”.
Sáu là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dự báo, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm đồng bộ, thống nhất, toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn, khả thi, lấy hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước làm mục tiêu phấn đấu.
Có thể khẳng định, tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lịch sử và thời đại vô cùng sâu sắc. Hiểu rõ điều đó, 55 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn kiên định, nỗ lực phấn đấu thực hiện những chỉ dẫn quý báu của Người trong Di chúc, đưa nước ta không ngừng vươn lên mạnh mẽ, ngày càng khẳng định uy tín, vị thế quốc tế, có đóng góp quan trọng vào những thành tựu chung của phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ mãi trường tồn, là ngọn đèn soi sáng, dẫn dắt dân tộc ta luôn tiến về phía trước trên hành trình hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Chúng ta nguyện suốt đời trung thành với Người, đem hết tâm hồn và nghị lực, đoàn kết thành một khối sắt thép, phấn đấu quên mình, quyết làm tròn nghĩa vụ cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân ta và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới”.
Theo https://special.nhandan.vn
Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tỉnh tổ chức Hội thảo khoa học
Chiều 29/8, Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp tổ chức Hội thảo khoa học về “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang”. Đồng chí Trần Ngọc Minh, Phó Bí thư Đảng ủy Khối chủ trì Hội thảo.
Quang cảnh Hội thảo
Dự Hội thảo có trên 70 đại biểu là Ủy viên Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh, các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo thực hiện đề tài khoa học cấp cơ sở của Cơ quan Đảng ủy Khối; lãnh đạo các ban, Văn phòng Đảng ủy, Đoàn thể Khối; các đồng chí lãnh đạo cấp ủy các cơ sở đảng trong Khối và đại diện lãnh đạo phòng chuyên môn thuộc Sở KH&CN.
Nội dung Hội thảo nằm trong phạm vi nhiệm vụ Khoa học công nghệ cấp cơ sở do Cơ quan Đảng uỷ Khối chủ trì thực hiện được triển khai từ tháng 2/2024 đến tháng 10 năm 2024. Tính đến thời điểm này, Ban chỉ đạo đề tài đã tổ chức khảo sát, điều tra xã hội học thực tế tại 18 doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh với 250 phiếu. Đồng thời, đã tiến hành tổng hợp, phân tích số liệu và tổ chức nghiên cứu, đánh giá thực trạng để đề ra các giải pháp thiết thực phù hợp với tình hình thực tế và đặc thù của các doanh nghiệp .
Tại Hội thảo, các đại biểu đã thảo luận để làm rõ về kết quả đạt được, những thuận lợi, khó khăn và những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ; đồng thời, đề xuất các giải pháp thiết thực để triển khai thực hiện có hiệu quả công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang.
Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Trần Ngọc Minh, Phó Bí thư Đảng ủy Khối đánh giá: Nội dung nghiên cứu của Đề tài nhằm đề xuất các giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 301-NQ/TU ngày 09/10/2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2023- 2030.
Đồng chí Phó Bí thư đánh giá cao về chất lượng các bài tham luận. Đây là các nội dung đã được nghiên cứu công phu, khoa học, đề xuất nhiều giải pháp sát với điều kiện cụ thể từng doanh nghiệp, khả năng áp dụng và có giá trị thực tiễn cao. Việc nghiên cứu đề tài là hết sức cần thiết trước thực trạng còn nhiều tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước có tổ chức Đảng trực thuộc Đảng bộ Khối Doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang. Đồng chí đề nghị các đại biểu tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thiết thực gửi Ban chỉ đạo thực hiện đề tài khoa học để phục vụ cho công tác nghiên cứu và hoàn thiện đề tài khoa học.
Thông qua hội thảo giúp cho các đồng chí lãnh đạo cấp ủy các cơ sở đảng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt chi bộ; thường xuyên quan tâm đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và công tác quản lý đảng viên, góp phần nâng cao hiệu quả nhiệm vụ chính trị của đơn vị, doanh nghiệp.
Ninh Trần
Kế hoạch triển khai Cuộc thi Cuộc thi “Bắc Giang niềm tin và khát vọng”
>> Kế hoạch số 158-KH/ĐUK ngày 214/8/2024 của Ban Thường vụ Đảng ủy Khối
>> Thể lệ Cuộc thi
>> Quyết định số 02-QĐ/BTC ngày 02/8/2024 của Ban Tổ chức Cuộc thi về việc ban hành Bộ câu hỏi phần thi viết
Ngày 21/8/2024, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã ban hành Kế hoạch số 158-KH/ĐUK về việc triển khai Cuộc thi tuyên truyền về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (Chủ đề: Bắc Giang niềm tin và khát vọng) kèm theo Thể lệ Cuộc thi và Quyết định số 02-QĐ/BTC ngày 02/8/2024 của Ban Tổ chức Cuộc thi về việc ban hành Bộ câu hỏi phần thi viết Cuộc thi “Bắc Giang niềm tin và khát vọng”; đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở triển khai, tuyên truyền rộng rãi về mục đích, yêu cầu, nội dung và Thể lệ Cuộc thi tới cán bộ, đảng viên, người lao động của đơn vị bằng hình thức phù hợp.
Ban Biên tập
Công văn triển khai tuyên truyền kỷ niệm 55 thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm Ngày mất của Người và 70 năm Giải phóng Thủ đô
>> Công văn số 56-CV/BTGĐUK ngày 21/8/2024 của Ban Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối
>> Đề cương tuyên tuyền 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
>> Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô
Ngày 21/8/2024, Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối đã ban hành Công văn số 56-CV/BTGĐUK về việc triển khai tuyên truyền kỷ niệm 55 thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm Ngày mất của Người và 70 năm Giải phóng Thủ đô kèm theo Đề cương tuyên truyền; đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở triển khai, tuyên truyền rộng rãi tới cán bộ, đảng viên, người lao động của đơn vị bằng hình thức phù hợp.
Ban Biên tập
Hội CCB Khối Doanh nghiệp tỉnh tổ chức sinh hoạt chuyên đề
Dự hội nghị có trên 150 đại biểu là cán bộ lãnh đạo Hội các cấp, cán bộ đoàn cơ sở trực thuộc Đoàn Khối và hội viên CCB trong Khối
Sáng ngày 18/8/2024, Hội CCB Khối Doanh nghiệp tỉnh phối hợp cùng Đoàn Khối tổ chức Hội nghị sinh hoạt chuyên đề về học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh. Tham dự Hội nghị có trên 150 đại biểu là cán bộ lãnh đạo Hội các cấp, cán bộ đoàn cơ sở trực thuộc Đoàn Khối và hội viên CCB trong Khối. Đồng chí Trần Ngọc Minh - Phó Bí thư Đảng ủy, Ủy viên BCH Hội CCB tỉnh, Chủ tịch Hội CCB Khối dự và chủ trì Hội nghị.
Đồng chí Trần Ngọc Minh - Phó Bí thư Đảng ủy, Ủy viên BCH Hội CCB tỉnh, Chủ tịch Hội CCB Khối chủ trì Hội nghị
Đây là sinh hoạt chính trị được Hội CCB Khối tổ chức quán triệt, học tập tập trung hằng năm, nhằm tuyên truyền, giáo dục, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của cán bộ, hội viên CCB trong Khối về đẩy mạnh thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tại Hội nghị, các đại biểu được tìm hiểu, nghiên cứu (1) Phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo; (2) Phong cách làm việc luôn trọng dân, gần dân, thấu hiểu nhân dân, chăm lo lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; (3) Phong cách lãnh đạo tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, luôn làm gương trước để mọi người noi theo; (4) Phong cách diễn đạt chân thực, trong sáng, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với mọi lứa tuổi, mọi đối tượng; (5) Phong cách ứng xử văn hóa, tinh tế, có lý có tình; (6) Phong cách sinh hoạt, cần kiệm liêm chính, hài hòa, giản dị, gần gũi, mỗi việc làm, mỗi hành động đều chứa đựng ý nghĩa giáo dục rất cao.
Quang cảnh Hội nghị
Qua học tập, quán triệt giúp cho cán bộ, hội viên, đoàn viên trong Khối nắm vững 06 giá trị cốt lõi về phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mà mỗi cán bộ, hội viên, đoàn viên đều phải học tập, vận dụng sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn được giao và nhiệm vụ công tác CCB, công tác thanh niên ở đơn vị. Để thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian tới đồng chí Trần Ngọc Minh yêu cầu các tổ chức Hội CCB và đoàn cơ sở tập trung những nội dung trọng tâm sau:
Một là, tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, nội dung phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, hội viên, đoàn viên.
Hai là, quá trình thực hiện phải gắn chặt với triển khai các phong trào thi đua yêu nước tại đơn vị và công tác đấu tranh phòng, chống mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.
Ba là, tăng cường tuyên truyền, lan tỏa các nội dung phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên, công nhân lao động. Tích cực tham gia công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; nhận diện, chỉ rõ và tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Bốn là, quá trình triển khai thực hiện gắn với thực tiễn của đơn vị và nêu cao vai trò, trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm nêu gương của lãnh đạo Hội CCB và tổ chức Đoàn thanh niên.
Năm là, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện học tập và làm theo phong cách của Bác. Định kỳ sơ tổng kết, kịp thời biểu dương, khen thưởng, tuyên truyền nhân rộng các điển hình tiên tiến.
Sau học tập, quán triệt, mỗi cán bộ, hội viên CCB, đoàn viên thanh niên trong Khối xác định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, tinh thần xung kích của thanh niên trong vận dụng thực hiện, làm theo phong cách của Bác khi công tác ở cơ quan, doanh nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025 và nghị quyết đại hội Hội CCB các cấp nhiệm kỳ 2022 - 2027 trong toàn Khối.
Trường Tam
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân thăm cấp Nhà nước tới Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Vào khoảng 9 giờ 30 phút (giờ địa phương) ngày 18/8, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã đến thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), bắt đầu chuyến thăm cấp Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và Phu nhân.
Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân tại Sân bay quốc tế Bạch Vân, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông. (Ảnh: BÁO THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM)
Sân bay quốc tế Bạch Vân rực rỡ Quốc kỳ Việt Nam và Quốc kỳ Trung Quốc. Hai hàng tiêu binh dọc hai bên thảm đỏ. Đồng chí Vương Vĩ Trung cùng các quan chức tỉnh Quảng Đông nồng nhiệt chào đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam.
Đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tại Sân bay quốc tế Bạch Vân, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), về phía Trung Quốc có Ủy viên Trung ương Đảng, Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đông Vương Vĩ Trung; Thị trưởng thành phố Quảng Châu Tôn Chí Dương; Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Hùng Ba. Về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Phạm Sao Mai và Phu nhân; Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu Nguyễn Việt Dũng và Phu nhân, cùng một số cán bộ Tổng Lãnh sự quán và bà con cộng đồng người Việt Nam tại Quảng Châu.
Chuyến thăm Trung Quốc lần này của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm diễn ra vào thời điểm rất đặc biệt, đúng vào năm kỷ niệm 100 năm đồng chí Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu hoạt động cách mạng (11/11/1924-11/11/2024) với tư cách đại diện của Quốc tế Cộng sản. Đây là những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà cách mạng Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc, nhất là trong việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng ta (6/1925). Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó chưa chính thức thành lập, nhưng người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thiết lập mối quan hệ nồng thắm với các nhà lãnh đạo Trung Quốc như Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ tại Quảng Châu.
Năm 2025 cũng đánh dấu 80 năm Quốc Khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Trung Quốc.
Theo chương trình, tại thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đến Công viên Nghĩa trang Hoàng Hoa Cương, dâng hoa tại mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái; thăm Khu di tích Trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ hội kiến với Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông; gặp gỡ nhân sĩ hữu nghị Trung Quốc.
Theo https://nhandan.vn
Phát huy giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám trong thời đại mới
Cách đây 79 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, đập tan ách thống trị, áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến, giành lấy chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mùa thu lịch sử ấy mãi mãi là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc ta.
Ngày 19/8/1945, hàng vạn người dân Thủ đô dự míttinh tại Quảng trường Nhà hát Lớn thành phố chào mừng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta từ một xứ thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước tự do, độc lập. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình. Đất nước ta, dân tộc ta từ mùa thu Cách mạng Tháng Tám bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là sự kiện mang tầm vóc thời đại, có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với các dân tộc thuộc địa, nhân dân bị áp bức, bóc lột trên thế giới vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng minh đường lối cách mạng đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt, tầm nhìn chiến lược, nhạy bén chớp thời cơ ngàn năm có một của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đường lối đó được đội ngũ đảng viên tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, không quản gian khổ, hy sinh, bền bỉ tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân tiến hành các cao trào cách mạng trong suốt 15 năm kể từ ngày thành lập Đảng, tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Cách mạng Tháng Tám thành công khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh của truyền thống yêu nước nồng nàn, bản lĩnh, trí tuệ và ý chí quật cường của dân tộc được kế thừa, phát huy lên tầm cao mới trong cuộc đấu tranh do Đảng ta lãnh đạo.
79 năm qua, tinh thần Cách mạng Tháng Tám, thành quả của Cách mạng Tháng Tám và những bài học kinh nghiệm vô giá là nền tảng vững chắc để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta giương cao ngọn cờ cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, viết nên những trang sử thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ, huy hoàng.
Chín năm kháng chiến trường kỳ làm nên kỳ tích Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. 21 năm chiến đấu anh dũng, đánh bại các chiến lược chiến tranh của địch, giành toàn thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước. Tiếp đó là các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế cao cả.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân ta kiên cường giữ vững độc lập, tự chủ và tiến nhanh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, bước sang thời kỳ phát triển mới, người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.
Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tự hào về thành quả cách mạng, chúng ta mãi mãi khắc ghi công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, cống hiến xương máu của hàng triệu Anh hùng, liệt sĩ, những người con ưu tú của dân tộc, các bậc lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình có công với Tổ quốc.
Chúng ta nguyện tiếp tục phát huy giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, đoàn kết, thống nhất một lòng, quyết tâm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tăng tốc thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII đã đề ra, tạo đà vững chắc cho chặng đường tiếp theo, để đến năm 2045 - tròn 100 năm thành lập Nhà nước ta, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao; đồng thời tập trung cao độ triển khai các công việc chuẩn bị cho đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng - dấu mốc quan trọng, mốc son mới trên con đường phát triển của đất nước.
Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tiến độ công việc, bảo đảm phát triển đồng bộ các lĩnh vực, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Các cấp ủy, tổ chức đảng tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với tăng cường học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của đất nước, của nhân dân.
Mỗi cán bộ, đảng viên nỗ lực rèn luyện, nêu gương đạo đức cách mạng, tiên phong trong mọi công việc, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ, xứng đáng vai trò lực lượng nòng cốt, chỉ huy, tập hợp quần chúng nhân dân đứng dưới ngọn cờ cách mạng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trên chặng đường phát triển mới của đất nước.
Tiếp nối hào khí Cách mạng Tháng Tám, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta không ngừng tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chung sức, đồng lòng quyết tâm lập nên những kỳ tích trong chặng đường cách mạng mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Theo https://nhandan.vn
Công văn triển khai Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu Luật Đất đai năm 2024
>> Công văn số 55-CV/BTGĐUK ngày 16/8/2024 của Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối
>> Kế hoạch số 514-KH/BTGTW ngày 6/8/2024 của Ban Tuyên giáo Trung ương
Ngày 16/8/2024, Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối đã ban hành Công văn số 55-CV/BTGĐUK về việc triển khai Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu Luật Đất đai năm 2024 kèm theo Kế hoạch số 514-KH/BTGTW ngày 6/8/2024 của Ban Tuyên giáo Trung ương về tổ chức Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu Luật Đất đai năm 2024; đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở triển khai, tuyên truyền rộng rãi về mục đích, yêu cầu, nội dung Cuộc thi và vận động cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và người lao động của đơn vị tích cực tham gia hưởng ứng.
Ban Biên tập
Triển khai thực hiện Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới
Đảng ủy Khối Doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang vừa ban hành Công văn số 965-CV/ĐUK về việc triển khai thực hiện Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới (Quy định số 144-QĐ/TW).
Theo đó, Ban Thường vụ Đảng ủy đề nghị các chi, đảng bộ cơ sở, các ban, văn phòng Đảng ủy, các đoàn thể khối tổ chức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Quy định số 144-QĐ/TW để mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc, nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu, tự giác thực hiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng trong giai đoạn mới, tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ Khối.
Bổ sung nội dung Quy định số 144-QĐ/TW vào các nghị quyết, quy chế, quy định có liên quan của cấp ủy, đơn vị, doanh nghiệp và liên quan đến xây dựng chuẩn mực đạo đức, tiêu chuẩn cán bộ, đảng viên, công nhân viên, người lao động của đơn vị… bảo đảm dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện.
Đưa các nội dung Quy định số 144-QĐ/TW vào các bài giảng, để giảng dạy trong các chương trình bồi dưỡng nhận thức về Đảng và bồi dưỡng lý luận chính trị cho đảng viên mới, cho các đối tượng học viên tham gia học tập, bồi dưỡng tại các lớp của Đảng ủy Khối.
Việc triển khai thực hiện Quy định số 144-QD/TW gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết, Kết luận của Trung ương Đảng về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; Chỉ thị số 26-CT/TU ngày 02/6/2023 của BTV Tỉnh ủy về chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc và nâng cao trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới; Quy định những điều đảng viên không được làm...đảm bảo thống nhất, hiệu quả.
Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện Quy định số 144-QD/TW để mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt phát huy tốt vai trò nêu gương trong thực hiện chuẩn mực đạo đức cách mạng và tự soi, tự sửa, tự hoàn thiện bản thân, đồng thời thực hiện tốt cam kết nêu gương hằng năm.
Các đoàn thể khối chỉ đạo đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nội dung Quy định số 144-QĐ/TW đến đông đảo cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên biết, thực hiện; tăng cường phối hợp giám sát việc thực hiện Quy định.
Trang thông tin điện tử, trang fanpage của Đảng bộ Khối tăng cường tuyên truyền, phổ biến những nội dung cơ bản, cốt lõi của Quy định số 144-QĐ/TW và việc triển khai thực hiện ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong Đảng bộ Khối; tuyên truyên nhân rộng các tấm gương tiêu biểu về thực hiện chuẩn mực đạo đức cách mạng, tạo sự lan tỏa sâu rộng trong toàn Đảng bộ Khối.
Ban Chỉ đạo 35 Đảng bộ Khối và cấp ủy cơ sở tích cực tham mưu chỉ đạo và thực hiện tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ động, thường xuyên nắm tình hình, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, nhận thức lệch lạc về các chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, nhất là trên không gian mạng; nhận diện, chỉ rõ luận điệu, âm mưu, thủ đoạn, phương thức của các đối tượng thù địch, tuyên truyền tới cán bộ đảng viên, người lao động có ý thức trách nhiệm trong phòng ngừa, đấu tranh.
Ngọc Châm
Thể lệ Giải Báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lần thứ năm, năm 2024 – 2025
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam phối hợp tổ chức Giải báo chí toàn quốc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực lần thứ năm, năm 2024 - 2025.
Giải được tổ chức nhằm phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong công tác tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục khẳng định vai trò của báo chí đối với công tác thông tin, tuyên truyền về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, lợi ích nhóm; phòng, chống các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần vào công tác xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Thời gian tiếp nhận tác phẩm tham dự Giải đến ngày 31/7/2025 (tính theo dấu bưu điện).
Lễ tổng kết và trao Giải dự kiến tổ chức vào tháng 11/2025 tại Thủ đô Hà Nội.
Trong quá trình triển khai, khi cần thiết, liên hệ với Ban Tuyên giáo Cơ quan Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (đơn vị thường trực Giải; số 46 phố Tràng Thi, quận Hoàng Kiếm, thành phố Hà Nội) hoặc đồng chí Vũ Đình Long, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Cơ quan Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, ĐT: 0985.802.555 để được cung cấp các thông tin liên quan đến Giải.
>> Thể lệ giải
Theo Tạp chí Dân vận
Tha hóa quyền lực không phải bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
Lợi dụng việc một số cán bộ, công chức bị kỷ luật thời gian qua, các thế lực thù địch tiếp tục xuyên tạc rằng sai phạm, nhất là tham nhũng do “tha hóa quyền lực” là bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận diện, đấu tranh chống luận điệu sai trái trên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và cấp bách hiện nay.
Theo cách hiểu thống nhất, tha hóa quyền lực là hành vi một số cán bộ, công chức lạm dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước để làm những việc sai trái, khuất tất nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân hay một nhóm người, gây tổn hại đến lợi ích chung của tập thể, lợi ích của quốc gia, dân tộc. Trong xã hội hiện đại thì tha hóa quyền lực càng trở nên tinh vi và biến tướng dưới nhiều hình thức phức tạp.
Gần đây, không ít người nắm giữ, thực thi công quyền đã bị cám dỗ bởi “màu hồng” của quyền lực. Khi có chức quyền trong tay, một số người chỉ lăm le khai thác quyền lợi, bổng lộc nhờ quyền lực mang lại mà không khép mình vào khuôn khổ tổ chức, quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trong giai đoạn 2012-2022, có 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật. Năm 2023 đã thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng.
Cùng với xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về kiểm soát quyền lực và phòng, chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực nhằm ngăn chặn kịp thời những “tổ mối” đang đục khoét thể chế, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Ảnh minh họa: TTXVN
Lợi dụng việc này, các thế lực thù địch tung ra những luận điệu xuyên tạc, cố tình bóp méo sự thật, cho rằng “tha hóa quyền lực” là bản chất của Đảng, hòng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng và đội ngũ cán bộ. Những thủ đoạn và luận điệu của chúng có thể nhận diện trên một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động quy chụp rằng, chế độ “một đảng” là nguyên nhân của tha hóa quyền lực. Chúng rêu rao rằng: Tha hóa quyền lực của cán bộ, công chức bắt nguồn từ chế độ “tập quyền, một đảng”... Cùng với cố tình đổ lỗi cho một đảng là nguyên nhân, mục đích của chúng không gì khác nhằm xóa bỏ vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tha hóa quyền lực được xem là “bóng tối vươn theo quyền lực”, gây suy giảm quyền lực nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến uy thế, thanh danh của Đảng và Nhà nước, biến bộ máy chính quyền và các tổ chức đảng trở nên quan liêu, xa rời lợi ích của nhân dân. Từ gần 200 năm trước, Karl Marx từng đưa ra những cảnh báo khi ông nghiên cứu về sự tha hóa quyền lực ở các nhà nước phương Tây, nhất là các nước tư bản phát triển.
Ông rút ra một điều: Quyền lực nhà nước càng lớn thì sự tha hóa của nó càng nguy hiểm, nó càng gần với tư cách một lực lượng tự trị thoát khỏi sự kiểm soát của con người. Điều này cho thấy tình trạng tha hóa quyền lực có ở mọi nhà nước, mọi xã hội có giai cấp, nó là một hiện tượng xã hội mà bất cứ chế độ xã hội nào cũng phải giải quyết.
V.I.Lenin cho rằng, “tệ quan liêu, tham nhũng khiến nhiều cán bộ, đảng viên bị tha hóa, trở thành những kẻ chuyên quyền, độc đoán, thậm chí nó có thể phá hủy một chính đảng, làm tiêu vong một chế độ”. Bàn về vấn đề này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân sâu xa, gốc rễ dẫn đến tha hóa quyền lực chính là chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “vì cá nhân chủ nghĩa nên đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, rồi sinh ra vô kỷ luật, vô tổ chức, tham địa vị, tham danh vọng, bè phái, tham ô, lãng phí, quan liêu”.
Kế thừa, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực và là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ; thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa bỏ tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn”. Như vậy, cần khẳng định rằng, chính chủ nghĩa cá nhân và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, cùng việc chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chính là nguyên nhân căn cơ của tha hóa quyền lực.
Mặt khác, trên cả phương diện lý luận, các nghiên cứu, phân tích đều đi đến kết luận, tham nhũng là hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu, khách quan trong xã hội có nhà nước (có giai cấp), không phụ thuộc vào chế độ chính trị đa đảng hay một đảng; chế độ nào, quốc gia nào cũng có tham nhũng.
Thực tế ở các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn là quốc nạn. Báo cáo Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2023 của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) cho thấy, trên thế giới không có quốc gia nào không có tham nhũng do tha hóa quyền lực. Quốc gia có điểm số thấp nhất (mức độ tham nhũng cao nhất) là Somalia (11 điểm), Nam Sudan (13 điểm); các quốc gia có điểm số cao (mức độ tham nhũng thấp) là Đan Mạch (90 điểm), Phần Lan (87 điểm)... Như vậy, từ báo cáo trên có thể thấy, tham nhũng, tiêu cực do tha hóa quyền lực không phụ thuộc vào chế độ một đảng lãnh đạo hay chế độ đa đảng. Việc các thế lực thù địch rêu rao rằng tha hóa quyền lực do chế độ một đảng gây ra là luận điệu bịa đặt.
Thứ hai, các thế lực thù địch xuyên tạc mục đích phòng, chống tha hóa quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng rêu rao rằng, mục đích của phòng, chống tha hóa quyền lực chỉ vì phục vụ "lợi ích phe, nhóm", là “cuộc chiến hay đấu đá quyền lực trong thượng tầng của Đảng”, là bước chuẩn bị cho “con em, vây cánh” tiến thân...
Những luận điệu của các thế lực thù địch rất nguy hiểm và hoàn toàn sai trái. Bởi như phân tích ở trên, tha hóa quyền lực luôn có và không bao giờ mất đi khi trong xã hội có giai cấp. Vì vậy, để ngăn chặn nó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tìm tòi và thực thi trong thực tiễn giải pháp để kiểm soát quyền lực hiệu quả, phải “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. Quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc rằng phòng, chống tha hóa quyền lực trong một bộ phận cán bộ, công chức là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Song song với thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, kinh tế... Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc ngăn ngừa, chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tha hóa quyền lực nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính, vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Trên thực tế, những cán bộ, đảng viên “tha hóa” bị xem xét kỷ luật do sai phạm thời gian qua đều được xử lý một cách nghiêm minh, công bằng, công tâm, minh bạch, đúng người, đúng tội và được thông tin rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, thông qua kỷ luật để cảnh tỉnh, răn đe, giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là những người có chức, có quyền “tự soi”, “tự sửa”, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phòng ngừa chặt chẽ, ngăn chặn từ gốc.
Chính việc xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên tha hóa thời gian qua đã được tuyệt đại đa số ý kiến người dân bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tha hóa quyền lực. Điều đó càng minh chứng rõ ràng cho mục đích của phòng, chống tha hóa quyền lực là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân và được nhân dân đồng tình, ủng hộ, chứ không phải như sự xuyên tạc của kẻ thù. Chính điều này đã gây thiện cảm mạnh mẽ, vun đắp niềm tin to lớn của nhân dân vào sự liêm chính, uy tín, sức mạnh và sự trong sạch của Đảng.
Thứ ba, chúng quy chụp rằng "tha hóa quyền lực" là phổ biến, là bản chất của đội ngũ cán bộ, công chức của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng “việc phòng, chống tha hóa quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam rồi sẽ đi đến thất bại”. Viện dẫn cho những suy diễn đó, chúng chắp vá, xâu chuỗi một số vụ việc tiêu cực đơn lẻ ở một bộ phận cán bộ, công chức rồi quy chụp rằng “sâu mọt ở khắp mọi nơi”, đội ngũ cán bộ, đảng viên “đang rơi vào tình trạng tha hóa, biến chất”.
Những quy chụp của các thế lực thù địch là dối trá, đi ngược lại mục đích tốt đẹp của Đảng ta.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải đối mặt với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đặc biệt là đối mặt với nguy cơ, thách thức từ tệ nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, quan liêu, làm liên lụy đến sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, hạnh phúc của nhân dân. Đảng đã thẳng thắn thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo công cuộc đổi mới; đồng thời, kiên quyết đấu tranh vạch mặt những kẻ mang danh Đảng, đội lốt đảng viên để phá Đảng, hại nước, hại dân.
Việc ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh không những thể hiện quyết tâm chính trị lớn lao của Đảng mà còn chứng tỏ Đảng luôn luôn cầu thị, sẵn sàng sửa chữa sai lầm, hạn chế, khuyết điểm để đưa đất nước vươn lên, trở nên tốt đẹp hơn. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ, đảng viên là rơi vào chủ nghĩa cá nhân... cùng với sự thiếu kiểm soát, kiểm tra, giám sát của các cấp. Những con sâu đó chỉ là số ít trong tổng số hơn 5 triệu đảng viên, cần phải được loại bỏ để hàng ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch hơn. Như vậy, từ việc xử lý một số cán bộ, công chức bị thoái hóa mà đánh đồng, quy chụp đó là bản chất của đội ngũ cán bộ, công chức là sự nhìn nhận lệch lạc, cực đoan của một số ít người chỉ với mục đích hạ thấp uy tín của Đảng.
Những luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian qua là vô căn cứ, phiến diện, phản khoa học, nhưng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu không nhận diện và đấu tranh kịp thời. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải quán triệt và thực hiện nhất quán nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu trong thực hiện công tác cán bộ.
Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cần đề cao cảnh giác cách mạng, nhận diện, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch để kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động đó.
Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trau dồi đạo đức cách mạng, phương pháp, tác phong công tác; luôn “tự soi, tự sửa” để không ngừng tiến bộ; biết đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Qua đó, góp phần quan trọng xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, vì khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Theo https://www.qdnd.vn
Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Tăng cường công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các Khu công nghiệp
Nhận thức đúng, quyết tâm cao, cùng với triển khai nhiều giải pháp quyết liệt công tác tuyên truyền vận động phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các khu công nghiệp (KCN). Sau 10 năm hoạt động, Đảng bộ các KCN tỉnh đã vận động và tổ chức cho gần 800 quần chúng ưu tú tham gia các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, kết nạp 337 đảng viên mới và thành lập mới 15 chi bộ…
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lê Thị Thu Hồng làm việc và tặng quà lưu niệm tại Công ty TNHH Cryta Martin.
Những chuyển biến nhận thức ban đầu…
Thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tỉnh Bắc Giang xác định chủ trương phát triển các KCN nhằm tận dụng các nguồn lực, làm đầu tầu cho phát triển công nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. KCN Đình Trám của tỉnh là KCN đầu tiên, đi vào hoạt động từ năm 2003. Đến 2013, Bắc Giang đã có 5 KCN với tổng diện tích quy hoạch là 1163,7ha. Các KCN của tỉnh đã được quy hoạch phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển các KCN của cả nước, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến 2020 được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Tuy nhiên, song hành với việc phát triển các KCN thì sau 10 năm công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các KCN của tỉnh vẫn là vùng trắng. Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối Doanh nghiệp (DN) tỉnh đã nhận thức được vị trí, vai trò các KCN trong phát triển kinh tế xã hội; đặc biệt, xác định công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các KCN là hết sức quan trọng.
Đồng chí Nguyễn Xuân Vượng, nguyên Bí thư Đảng uỷ Khối DN đã dự báo phát triển các KCN kéo theo lực lượng lớn lao động các địa phương về làm việc. Đây là nguồn nhân lực có sức trẻ, trí tuệ, trình độ, là dư địa chính cho công tác tuyên truyền, vận động phát triển đảng. Nếu làm được sẽ bổ sung cho Đảng đội ngũ đảng viên có chất lượng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời, đó chính là những hạt nhân góp phần giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh từ sớm, từ xa...
Chính vì vậy, tháng 5/2013, Ban Thường vụ Đảng uỷ Khối đã quyết định thành lập Chi bộ Các DN KCN tỉnh với 3 đảng viên, trong đó 02 cán bộ cơ quan Đảng ủy và 01 đảng viên đang công tác trong các KCN; phân công đồng chí Đảng ủy viên, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối làm Bí thư Chi bộ.
Quyết định của Đảng ủy Khối đã được tiếp thêm luồng sinh khí mới bởi ngày 17/10/2013, Ban Tổ chức Trung ương ban hành Hướng dẫn số 21-HD/BTCTW về xây dựng mô hình tổ chức đảng ở các KCN, khu chế xuất, khu kinh tế, cụm công nghiệp. Qua đó, giúp Đảng ủy Khối cụ thể hóa các nội dung trong công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các KCN của tỉnh.
Đến tháng 5/2014, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy, sự hướng dẫn của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Đảng ủy Khối đã tiếp nhận Chi bộ Ban Quản lý các KCN tỉnh về sinh hoạt tại Đảng ủy Khối. Căn cứ tình hình thực tiễn, Đảng ủy Khối đã Quyết định thành lập Đảng bộ Các KCN tỉnh – nòng cốt là Chi bộ Ban Quản lý các KCN, với 04 chi bộ và 34 đảng viên. Thống nhất với Lãnh đạo Ban Quản lý các KCN phân công Phó trưởng Ban trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy, cán bộ cơ quan Đảng ủy Khối làm Phó Bí thư Đảng ủy. Từ đây, công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên từng bước đi vào nề nếp và có chuyển biến tích cực.
… Những kết quả bước đầu của Đảng bộ các KCN
Những ngày đầu Đảng bộ các KCN mới vào hoạt động gặp rất nhiều khó khăn. Từ nhận thức của số đảng viên đang công tác tại Ban Quản lý các KCN, nhận thức của đảng viên đang công tác tại các DN, đến nhận thức của chủ các DN, nhất là DN có yếu tố nước ngoài… đã ảnh hưởng lớn đến việc tiếp cận tuyên truyền, vận động phát triển tổ chức Đảng, đảng viên.
Nguyên Phó Bí thư Đảng ủy các KCN Nguyễn Minh Chiến tâm sự: những ngày đầu, để gặp được lãnh đạo DN, cá nhân phải “ăn trực, nằm chờ”. Mỗi lần gặp thường rất ít thời gian. Có những chủ DN luôn tránh né việc phát triển đảng viên trong đơn vị, vì sợ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các DN có yếu tố nước ngoài và DN có hàng xuất khẩu lo ngại khi có tổ chức đảng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ với nước nhập khẩu vì khác biệt về chế độ chính trị...
Bên cạnh đó, ngay lực lượng nòng cốt tham gia công tác tuyên tuyền phát triển đảng trong Đảng bộ là đảng viên đảng công tác tại Ban Quản lý các KCN cũng còn nhiều hạn chế; bởi nhiệm vụ chuyên môn nặng nề, trong khi chưa bao giờ làm công tác đảng. Số đảng viên đang công tác tại các DN nhưng sinh hoạt nơi cư trú cũng không mặn mà chuyển sinh hoạt đảng đến, thậm trí còn dấu không khai mình là đảng viên... Vì vậy, khó khăn càng khó khăn.
Xong, với sự quyết tâm của Ban Thường vụ Đảng ủy khối, sự thống nhất, đồng hành của Ban quản lý các KCN, công tác tuyên truyền vận động dần đi vào nền nếp. Lãnh đạo quản lý các KCN đã yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Ban khi thực hiện nhiệm vụ chuyên môn phải lồng ghép tuyên truyền về công tác phát triển đảng.
Đảng ủy Khối thành lập Tổ tuyên truyền phát triển tổ chức Đảng, đảng viên trong các khu công nghiệp tỉnh; phân công mỗi cán bộ chuyên trách cơ quan Đảng ủy trực tiếp phụ trách, theo dõi, dự sinh hoạt, giúp đỡ một chi bộ trong Đảng bộ các KCN. Đồng thời, ký Kế hoạch phối hợp với Liên đoàn Lao động tỉnh để tăng cường công tác tuyên truyền phát triển tổ chức Đảng, đảng viên trong các khu công nghiệp tỉnh; phân công đồng chí Chủ tịch Công đoàn các KCN trực tiếp tham gia làm Phó Bí thư Đảng ủy các KCN... Phối hợp tổ chức nhiều hoạt động hướng đến công nhân, lao động trong các KCN, như: Lễ hội Trăng Rằm, hát cho công nhân nghe, Chương trình “Gian hàng dành cho công nhân lao động”, Tuần lễ bán hàng giảm giá cho công nhân lao động, phát động Tháng công nhân, Tháng An toàn vệ sinh lao động, gắn với hưởng ứng Tuần lễ nước sạch và vệ sinh môi trường...
Với nhiều giải pháp đồng bộ, 10 năm qua, công tác tuyên truyền phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các KCN đã đạt được nhiều kết quả ngoài mong đợi. Nhận thức của nhiều chủ DN đã có chuyển biến tích cực, kể cả chủ doanh có yếu tố nước ngoài. Nhiều DN đã tạo điều kiện cho công nhân lao động tham gia công tác đảng, đoàn thể; thậm trí nhiều DN nước ngoài đã tạo điều kiện cả về cơ sở vật chất cho tổ chức đảng sinh hoạt, bố trí phòng làm việc riêng để treo cờ Đảng phục vụ sinh hoạt đảng, đoàn thể như: Công ty TNHH Cryta Martin (Hồng Kông), Công ty TNHH Hosidel (Hàn Quốc), Công ty TNHH Sungwoo Việt Nam (Hàn Quốc)...
Chi bộ Công ty TNHH Hosidel tặng quà tri ân công nhân là con thương binh, liệt sỹ tại Phòng họp của Chi bộ tháng 7/2024
Bí thư Chi bộ Công ty TNHH Hosidel Nguyễn Văn Tân cho biết: Chi bộ thành lập được cấp văn phòng Đảng, Đoàn riêng, độc lập với khu vực văn phòng công ty và các phân xưởng sản xuất. Văn phòng có đầy đủ khánh tiết nên tạo được cảm xúc hơn mỗi khi người lao động đào tạo tại khu vực này. Đây cũng là điểm riêng biệt để quần chúng biết đến tổ chức đảng, mong muốn và phấn đấu được đứng trong hành ngũ của Đảng.
Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động, cùng với sự đồng thuận của các DN. Từ năm 2014 đến nay, Đảng bộ Các KCN tỉnh đã vận động và tổ chức cho gần 800 quần chúng ưu tú tham gia các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, qua đó đã kết nạp 337 đảng viên mới. Từ 04 chi bộ ban đầu, đến nay Đảng bộ các KCN phát triển lên 19 chi bộ với tổng số 363 đảng viên, trong đó 08 chi bộ trong khối FDI với 98 đảng viên; 06 Chi bộ có Bí thư là chủ DN; 14 đảng viên là chủ DN.
Trong sinh hoạt, các chi bộ trong Đảng bộ các KCN đã chú trọng nâng cao nhận thức và bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, từ đó nâng cao tinh thần cách mạng, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và người lao động, làm tốt công tác tuyên truyền, định hướng tư tưởng, nhất là trong dịp diễn ra các sự kiện chính trị trọng đại của đất nước. Đặc biệt, đợt Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương 981, hay đợt Quốc hội bàn về Luật đặc khu, Đợt cao điểm Covid-19... nhiều tỉnh thành trong cả nước đã sảy ra các vụ việc phức tạp. Nhưng với nòng cốt là đội ngũ đảng viên trong các KCN đã cùng với các lực lượng chức năng tuyên truyền, vận động để công nhân, lao động nhận thức rõ vấn đề, không rơi vào âm mưu của các thế lực thù địch, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức.
Đảng viên trong Đảng bộ các KCN đã tích cực đăng ký việc làm tốt, xây dựng điển hình tiên tiến tại đơn vị... 10 năm qua, đã có 2.512 việc làm tốt của cá nhân, 132 việc làm tốt của tập thể được thực hiện. Nhân dịp tổng kết 10 năm hoạt động của Đảng bộ các KCN, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối đã biểu dương, khen thưởng 5 tập thể và 15 cá nhân có thành tích trong công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên tại các KCN tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2014 – 2024.
Đảng ủy Khối DN tỉnh khen thưởng đảng viên tại hội nghị tổng kết 10 năm hoạt động của Đảng bộ các KCN.
... Một số vấn đề đặt ra
Dù đạt đượt nhiều kết quả quan trọng, xong công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các KCN còn nhiều vấn đề cần đặc biệt quan tâm. Việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại các chi bộ chưa được nhiều, nội dung chưa phong phú; chất lượng sinh hoạt đảng tại một số chi bộ trực thuộc chưa cao. Việc nắm bắt tình hình, phản ánh thông tin hai chiều diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên đôi khi còn chậm; ảnh hưởng đến chất lượng dự báo tình hình, cũng như các đề xuất, kiến nghị.
Đồng chí Nguyễn Thanh Hiệp, Bí thư Chi bộ Dây và Cáp điện Hàn Quốc tự kiểm điểm thấy kết quả thực hiện một số nhiệm vụ của tổ chức Đảng chưa đạt được như kỳ vọng; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ có lúc chưa thực sự hiệu quả, còn để xảy ra thiếu sót; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, chưa thực sự nêu gương trong thực hiện nhiệm vụ, còn có đảng viên sự phấn đấu chưa bằng quần chúng...
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên một phần là do công tác tuyên truyền về Đảng đối với chủ DN chưa được quan tâm đúng mức; số lượng đảng viên của Đảng bộ lớn song các cấp ủy viên đều làm việc theo chế độ kiêm nhiệm; năng lực, trình độ và kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng. Trong khi đó, một số đảng viên đang làm việc trong các DN chưa phát huy trách nhiệm của bản thân nên vai trò của tổ chức Đảng đối với hoạt động của DN chưa được thể hiện rõ.
Để những chuyển biến trong công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên ở các KCN thực sự đi vào chiều sâu, đòi hỏi Đảng ủy Các KCN tỉnh tiếp tục tranh thủ sự quan tâm, tạo điều kiện của lãnh đạo Ban Quản lý Các KCN tỉnh để làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, tổ chức đoàn thể và người quản lý DN; chỉ đạo các chi bộ trực thuộc phối hợp với lãnh đạo DN khắc phục khó khăn, tập trung đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh của DN.
Cấp ủy cấp trên cần bố trí cán bộ chuyên trách cho Đảng bộ các KCN; quan tâm tổ chức đối thoại giữa cấp ủy, lãnh đạo DN với đảng viên, công nhân lao động. Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các chi bộ trực thuộc. Nâng cao chất lượng cấp ủy cấp trên trực tiếp xuống sinh hoạt chi bộ, nắm chắc tình hình hoạt động của các DN và tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Qua đó, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của chủ DN đối với việc phát triển tổ chức đảng, đảng viên.
Bên cạnh đó, phải tăng cường vai trò Công đoàn các KCN trong công tác tuyên truyền, vận động công nhân lao động phấn đấu trở thành đảng viên. Phối hợp chỉ đạo, tạo điều kiện để tổ chức Đoàn thanh niên trong các KCN nâng cao chất lượng hoạt động; thu hút, tập hợp đoàn viên, thanh niên. Thông qua các hoạt động, phát hiện giới thiệu quần chúng ưu tú cho tổ chức đảng để bồi dưỡng, phát triển trở thành đảng viên./.
Trần Ngọc Minh
- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn... 17/09/2024
- Cán bộ, đảng viên Cơ quan Đảng uỷ Khối DN tỉnh ủng hộ Nhân dân bị thiệt hại bão số 3 12/09/2024
- Công văn về việc triển khai Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu pháp luật về an ninh mạng 10/09/2024
- Siêu bão Yagi 10/09/2024
User Online:13598
Total visited: 5974110